Phaùt taâm boà ñeà
Nhaát höôùng chuyeân nieäm

tinhkhongphapsu.vn

QUÁN KINH TỨ NHIẾP SỨ CƯƠNG YẾU

QUÁN KINH  TỨ NHIẾP SỨ

CƯƠNG YẾU

Giảng giải: Đại Sư Thiện Đạo
 

1. Năm bộ chín quyển, bổn sớ cụ sớ, giáo môn Hạnh môn, an tâm khởi hạnh.

Những trứ tác của Đại Sư Thiện Đạo được Đức Phật A Di Đà thị hiện chỉ dạy, hiện còn lại năm bộ chín quyển, trong đó một bộ bốn quyển của Quán Kinh sớ được đưa vào Đại Chánh Tạng quyển ba mươi bảy, còn bốn bộ năm quyển khác được đưa vào Đại Chánh Tạng quyển bốn mươi bảy.

Quán Kinh sớ thường được gọi là Quán Kinh tứ thiếp sớ, tên đầy đủ là Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh sớ hoặc Quán Vô Lượng Thọ Kinh sớ, nhưng nhìn từ nội dung và ý nghĩa thì cũng gọi là Khải định sớ hoặc Chứng định sớ.

Ngoài ra, lại có những tên khác gọi là Quán Kinh nghĩa, Quán Kinh yếu nghĩa, Quán Kinh nghĩa sớ. Do bộ Sớ này có nhiều tên gọi, nên có thể thấy nó được trích dẫn rất rộng rãi và được đánh giá cao.

Trong năm bộ chín quyển thì Quán Kinh sớ được gọi là Bổn Sớ hoặc Kinh Sớ, cũng gọi là Giáo Tướng Phần, Giải Nghĩa Phần, An Tâm Phần đều thuộc về giáo môn. Ngược lại trong bốn bộ năm quyển thì Quán Niệm Pháp Môn được gọi là Cụ Sớ, cũng gọi là Hành Nghi Phần, Khởi Hạnh Phần đều thuộc về Hạnh Môn.

2. Di Đà chỉ dạy, Chư Phật chứng thành, khải định xưa nay, kính tin như Kinh.

Chủ đề trong Quán Kinh rất kỳ lạ đặc biệt, khiến cho những vị Sư trong các tông của Thánh Đạo môn thường rất khó lý giải. Phu Nhân Vi Đề Hi là một người nữ bình thường, thuần chất phàm phu, đã bị khổ não làm bức bách, nhưng ở trong sát na một phen thấy được tướng Phật A Di Đà hiện đứng giữa hư không, ngay tức khắc quyết định vãng sanh, ngộ được vô sanh pháp nhẫn.

Lại nữa, phần Lưu thông ở cuối Kinh có ghi: Chuyên xưng danh hiệu Phật A Di Đà thì chắc chắn vãng sanh về Tịnh Độ Di Đà ý dịch. Nhưng người ác tội chướng rất nặng ở hạ hạ phẩm, khi lâm chung đau khổ bức bách, lửa địa ngục hiện ra, chỉ cần mười niệm cũng được vãng sanh.

Mấy điểm này rất khó khiến cho hành giả thuộc căn tính tự lực của Thánh Đạo môn hiểu được. Nói theo phương diện chứng ngộ thì chỉ có phá được kiến hoặc, nhưng nếu chẳng phải đời trước tích lũy công đức, thực hành các hạnh khó làm, thì không thể nào đạt đến được.

Nhưng phu nhân Vi Đề Hi sanh ra và lớn lên trong hoàng cung, tự do hưởng thụ ngũ dục, không hề có một ngày tu hành?

Nhưng trong một sát na, tâm tánh một phen xoay chuyển thì bước lên ngôi vị Vô sanh pháp nhẫn thể ngộ được sự cứu độ của Phật A Di Đà, được tín tâm bất thoái.

Lại nữa, xa lìa sự luân hồi trong ba đường sáu nẻo đâu phải là chuyện dễ?

Nhưng mà người ác tội chướng sâu nặng, không lương thiện cũng chẳng có công hạnh nào, chỉ cần niệm danh hiệu Phật cũng được người ở cõi Ta Bà chắp tay vái lạy, chóng được vãng sanh Cực Lạc. Những việc như vậy hoàn toàn thoát khỏi tri kiến phàm phu.

Vì thế, các Sư thuộc Thánh đạo môn đua nhau chú giải Quán Kinh, nhưng họ xác định sai lầm Phu Nhân Vi Đề Hi là bậc Đại Bồ Tát, đời trước đã từng tích lũy công đức tu tập nay mới có thể ở trong hội này liền đắc vô sanh pháp nhẫn. Đồng thời họ cho rằng mười niệm vãng sanh là chỉ có nguyện mà không có hạnh, chỉ gieo duyên xa ở đời sau chứ chưa thể đời nay liền được vãng sanh.

Hiểu lầm như vậy, thì chánh cơ trong Quán Kinh nói chẳng phải là phàm phu mà là Thánh Nhân, sẽ làm cho ý chính trong Quán Kinh ẩn mà không hiện, chúng ta ở đời trược ác muốn cầu ra khỏi luân hồi mà không có môn này.

Loại hiểu sai lầm này, nói tóm lại: Không biết mục đích của Quán Kinh đã nói rõ về bản nguyện của Phật A Di Đà, lấy phàm phu làm gốc, cũng chính là không biết Pháp Môn tha lực dễ thực hành của Tịnh Độ môn, và chấp trước về tự lực rất khó hành trì của Thánh đạo môn.

Bởi vì, Thánh đạo môn phải dùng sức tu hành tự lực để cứu độ việc sanh tử luân hồi của chính mình, nhưng đây là môn tự lực rất khó làm, cho nên Kinh Đại Tập ghi: Ức ức chúng sanh tu hành không có một người đắc đạo. 

Nếu có ai hoàn toàn nương vào sức cứu độ của Đức Phật A Di Đà, thì bất luận tất cả hàng phàm phu thiện hay ác đều có thể vãng sanh Cực Lạc, không còn trở lại luân hồi trong sáu đường, cho nên Quán Kinh Sớ nói: Tất cả hàng phàm phu thiện hay ác đều được vãng sanh, đều nương vào đại nguyện, đại hạnh và đại lực của Phật A Di Đà làm tăng thượng duyên.

Lại nói: Nhờ bản nguyện của Phật để làm duyên mạnh mẽ, khiến cho năm thừa đều vào được, cho nên tự lực và tha lực hoàn toàn khác nhau.

Nhưng trong Quán Kinh đúng là Kinh nói về sự vãng sanh Tịnh Độ tha lực, và pháp cứu độ nhờ vào sức Phật A Di Đà. Kinh này Đức Phật chẳng phải nói cho bậc Thánh mà Ngài nói cho hàng phàm phu. Vì nhờ sức Phật, nên phàm phu Vi Đề Hi ngộ được vô sanh, người ác tội chướng sâu nặng cũng được vãng sanh Cực Lạc. 

Đây hoàn toàn nương vào sức cứu độ của Phật A Di Đà không một chút nào dựa vào tự lực của hàng phàm phu mà tự mình thành tựu. Phật Pháp có năm loại bất khả tư nghị, trong đó đứng đầu là Phật lực. Phật lực không thể nghĩ bàn chính là chỉ cho sức đại bi cứu độ của Phật A Di Đà.

Như hiện nay sở dĩ Quán Kinh sớ của Đại Sư Thiện Đạo được gọi là Khải định sớ, chính là do Đại Sư hoàn toàn đứng trên lập trường sức cứu độ của Phật A Di Đà, chấn chỉnh lại sự hiểu lầm của các Sư thuộc Thánh Đạo môn xưa nay, xác định lại việc đúng sai.

Lời bạt của Đại Sư có nói: Nay tôi nói về yếu nghĩa của Quán Kinh này là để xác định lại việc đúng sai xưa nay.  

Chữ cổ trong chữ cổ kim có nghĩa là xưa nói, chỉ cho luận thuyết của các Ngài Huệ Viễn ở Chùa Tịnh Ảnh, Ngài Cát Tạng ở Chùa Gia Tường, Ngài Trí Khải thuộc tông Thiên Thai trước thời Đại Sư Thiện Đạo trứ tác Quán Kinh Sớ.

Chữ kim có nghĩa là nay nói, chỉ cho người kế thừa luận thuyết của Ngài Tịnh Ảnh, Gia Tường nhằm vào thời đại của Đại Sư, và luận thuyết của các nhà Nhiếp Luận. Trong Quán Kinh sớ gọi Đại Sư hiệu là Thị Tôn người chỉ dạy pháp môn Tịnh Độ thuần chánh, và gọi chung các vị trên đây gọi là các sư.

Khải là nghiêm chỉnh, quy phạm, định là quyết định nghĩa lý đúng sai, cũng tức là quyết định nghĩa lý đúng sai, để trở thành khuôn mẫu cho người đời sau gọi đó là Khải định.

Do các Sư xưa nay ở Chùa Tịnh Ảnh lấy quan điểm giáo pháp tự lực của Thánh đạo môn để giải thích về Quán Kinh trong giáo pháp tha lực của tông Tịnh Độ, mà không thể nắm bắt được nghĩa lý chân thật của Quán Kinh.

Bởi thế, nghĩa lý chân thật ẩn chứa trong Quán Kinh không làm rõ được, bản hoài của Đức Thích Tôn không hiện ra, Phật lực của Đức Phật A Di Đà không hiển hiện, nên sự hoằng truyền Tịnh Độ bị trở ngại, con đường vãng sanh của hàng phàm phu bị bít lấp.

Đại Sư Thiện Đạo thấy tình hình như vậy rất đau lòng, Ngài nói: Tự họ sai lầm, làm hại người sau, Ngài mới hướng đến Phật A Di Đà và Chư Phật cầu xin thầm gia bị để Ngài biên soạn bộ Sớ này, nhằm xác định việc lí giải đúng sai xưa nay đối với Quán Kinh, và nêu ra ý nghĩa chân thật của Quán Kinh. 

Quả nhiên ngay lúc bắt đầu viết bộ Sớ này, mỗi đêm trong mộng đều có một vị Thánh Tăng đến trước Ngài để chỉ dạy quy tắc giải thích về ý nghĩa huyền diệu. Vì thế, bộ Sớ này đưa ra nghĩa lý chân thật của Quán Kinh, tựa như mặt trời trên cao chiếu sáng khắp mặt đất. 

Đức Thích Tôn hy vọng nguyện lực của Phật A Di Đà xưa kia thâu nhiếp khắp tất cả chúng sanh không bỏ sót một ai. Người niệm Phật giống như măng mọc sau cơn mưa, đầy khắp Trường An.

Vì thế, bậc Cổ Đức nói: Chỉ có một mình Đại Sư Thiện Đạo làm sáng tỏ ý chính của Đức Phật. Cũng chính là trong giới Phật Giáo đương thời, chỉ có Đại Sư Thiện Đạo kế thừa chánh phái của Đại Sư Đàm Loan và Đại Sư Đạo Xước, nói rõ về mục đích chính và ý nghĩa xác thực của Quán Kinh mà Đức Thế Tôn nói trong Kinh này. Vì thế, bộ Sớ của Đại Sư được gọi là Khải Định Sớ.

Lại nữa, bộ Sớ này được Chư Phật chứng minh thẩm định, cho nên cũng gọi là chứng định sớ, lời bạt của bộ Sớ này nói: Một câu một chữ cũng không thêm không bớt, điều muốn viết ở đây nhất nhất phải đúng với Kinh Pháp.

Pháp Nhiên Thượng Nhân khen rằng: Quán Kinh Sớ của Đại Sư Thiện Đạo là kim chỉ nam về Tây phương, là mắt và chân của hành giả.

Lại nói: Trong mộng có một vị tăng chỉ dạy nghĩa lý huyền diệu, vị tăng có lẽ là Phật A Di Đà ứng hiện, như thế có thể cho rằng bộ Sớ này là do Đức Phật A Di Đà chỉ dạy. 

Lại nói: Cả thế gian gọi là chứng định sớ, mọi người ca ngợi bộ Sớ này giống như Kinh Pháp.

Bộ Quán Kinh Sớ này là nghĩa lý huyền diệu do Đức Phật A Di Đà chỉ dạy, và là sự giải thích vi diệu được Chư Phật chứng thành, không thể không trân trọng và kính tin.

3. Chín phẩm chỉ có phàm, Quán Kinh có một bộ, Phật nói cho hàng phàm phu nghe, chứ chẳng phải cho hàng Thánh Nhân.

Sự giải thích của các Sư đối với Quán Kinh có ảnh hưởng rất lớn, vả lại sự hiểu lầm cũng rất dễ thấy, có bốn điểm sau:

Luận về Thánh Nhân Vi Đề Hi: Cho rằng Phu Nhân Vi Đề Hi là vị Đại Bồ Tát.

Luận về chín phẩm chỉ có bậc Thánh: Cho rằng căn cơ chín phẩm vãng sanh đều là bậc Thánh.

Luận về hóa thân hóa độ: Cho rằng Đức Phật A Di Đà là hóa thân, Cực Lạc là hóa độ.

Luận về biệt thời ý thú: Cho rằng mười niệm vãng sanh về Hạ hạ phẩm là chỉ có nguyện chứ không có hạnh.

Trong phần Hòa hội môn thứ sáu thuộc bảy môn phân khoa quyển thứ nhất phần Huyền Nghĩa của Quán Kinh Sớ, Đại Sư có bàn về bốn luận điểm này, chỉnh sửa lại tất cả, đồng thời nêu ra bảy luận điểm sau đây, làm chính luận để cải chính quan điểm xưa nay.

Trên thực tế thì bảy luận điểm này là điểm quan trọng của Quán Kinh Sớ để cải chính về quan điểm xưa nay: Luận về hàng phàm phu trong Quán Kinh. Phật nói Quán Kinh, chỉ dành cho hàng phàm phu, chứ không phải dành cho hàng Thánh Nhân.

Luận về phàm phu Vi Đề Hi: Phu Nhân Vi Đề Hi là phàm phu, chẳng phải là Thánh Nhân.

Luận về chín phẩm chỉ là hàng phàm phu: Hành giả trong chín phẩm đều là phàm phu, chẳng phải là Thánh Nhân.

Luận về Báo Thân Báo độ: Di Đà là Báo Phật, Cực Lạc là Báo độ.

Luận về nguyện hạnh đầy đủ: Sáu chữ danh hiệu có đầy đủ nguyện hạnh, tín tâm xưng danh chắc chắn được vãng sanh.

Luận về phàm phu nhập vào Báo độ: Dù cho tất cả hàng phàm phu thiện hay ác đều vãng sanh về Báo độ bình đẳng không sai khác, chứng được ánh sáng và thọ mạng vô lượng bằng với Đức Phật A Di Đà là bản ý của Tịnh Độ Môn.

Luận về nương vào nguyện lực của Phật: Tất cả phàm phu thiện hay ác đều vãng sanh về Báo độ, thảy đều nương vào đại nguyện, đại hạnh và đại lực của Phật A Di Đà.

Phần Hạ hạ phẩm trong Quán Kinh nói đến hàng phàm phu suốt đời tạo ác, khi lâm chung bị khổ não làm bức bách, lúc đó gặp vị thiện tri thức chỉ dạy mười tiếng niệm Phật, ngay lập tức có đài hoa đến tiếp dẫn vãng sanh về Cực Lạc rất trang nghiêm. Đức Phật nói như vậy, cảnh giới như vậy, chẳng phải người có sự hiểu biết thông thường mà có thể hiểu được.

Đại Sư Đàm Loan nói: Lời nói của bậc phi thường, không rót vào lỗ tai người thường được, cho nên Đức Phật nói thế nào thì phải tin thế đó, tâm ngay thẳng là Đạo Tràng.

Nếu dùng lỗ tai người thường mà suy lường lời nói phi thường, thậm chí giải thích hợp lý theo cách nghĩ của hàng phàm phu, mà hiểu sai lời Phật nói, thì đây là tự mình hiểu sai, làm hại người khác, gây nên tội không nhỏ.

Quán Kinh dễ bị hiểu lệch, cho rằng đã là hàng phàm phu, lại còn tội cực ác thì làm sao có thể vãng sanh?

Nếu có thể vãng sanh thì nhất định chẳng phải là người ác phàm phu. Vì thế, lấy Bậc Thánh để quyết định căn cơ vãng sanh chín phẩm.

Xác định căn cơ vãng sanh chín phẩm là bậc Thánh, hàng phàm phu không có phần, hoàn toàn làm mất đi yếu chỉ quan trọng phàm phu là gốc của Tịnh Độ Môn, loại bỏ đi ý nghĩa chân thật mà Đức Phật đã nói trong Quán Kinh. Vì việc này mà Đại Sư cảm thấy bức xúc bèn chỉnh sửa lại cho đúng.

Ở phần Hòa hội môn trong phần Huyền nghĩa, trước tiên Đại Sư dùng lí lẽ lập luận để chỉ ra sự sai trái, kế đến dựa vào văn Kinh hàng phàm phu làm đối tượng chính trong Quán Kinh, Đại Sư chứng minh và đưa kết luận rằng: Xem ý nghĩa mạch văn định thiện và ba bậc chín phẩm của Quán Kinh, nói chung sau khi Phật diệt độ, hàng phàm phu trong đời ngũ trược, gặp duyên có sai khác, nên chín phẩm có khác nhau.

Tại sao?

Ba hạng người thượng phẩm là phàm phu gặp duyên đại thừa.

Ba hạng người trung phẩm là phàm phu gặp duyên tiểu thừa.

Ba hạng người hạ phẩm là phàm phu gặp duyên ác, do vì nghiệp ác, khi lâm chung gặp duyên lành, nương vào nguyện lực của Phật, mới được vãng sanh.

Lại nữa, ở trong phần tán thiện, Đại Sư đều phân định căn cơ và giai vị của chín phẩm, như biểu đồ sau: Căn cứ theo sự phân định của Đại Sư, chín phẩm đều là phàm phu, chẳng phải là bậc Thánh, vả lại bộ Quán Kinh là Đức Phật nói cho hàng phàm phu trong đời ngũ trược ở thời vị lai, chẳng phải nói cho bậc Thánh.

Đại Sư nói bậc Thánh là người đã: Vĩnh viễn đoạn tuyệt ba đường, không còn sanh vào bốn nẻo.

Thân tuy ở trong sanh tử nhưng không bị đắm nhiễm trong sanh tử, như ngỗng và vịt bơi trong nước, mà không bị ướt.

Thần thông tự tại, biến hiện không ngại nơi nào.

Đã là như vậy thì còn lo buồn việc gì nữa, mà nhờ Vi Đề Hi thỉnh Phật, để cầu vãng sanh về cõi nước An Lạc?

Bậc Thánh ấy, có thể nói đã lìa hẳn ba đường sáu nẻo, an lạc không còn lo âu, không cần Phật phải nghĩ ra phương pháp thoát khổ cho họ, không cần Phật A Di Đà phát nguyện cứu độ họ. Nhưng, hàng phàm phu ở đời ngũ trược sau khi Đức Phật diệt độ, bị giặc phiền não làm tổn hại, độc ác bất thiện, bị năm thứ khổ bức bách.

Nỗi khổ đó tợ như người bị đuối nước, thường bị chìm đắm trôi lăn trong sanh tử, đây chính là đối tượng cần phải gấp được cứu độ, Đức Phật A Di Đà từ bi thương xót vì họ mà Ngài phát nguyện thành tựu cõi Tịnh Độ, đó gọi là Di Đà cứu độ, phàm phu chánh cơ.

Thệ nguyện bi tâm của Phật A Di Đà lấy sự cứu độ hàng phàm phu tội nhân chúng ta bị giặc phiền não bức hại, khổ sở không chịu nổi trong đời mạt pháp năm trược về sau làm mục đích, nếu không lấy sự cứu độ căn cơ tội khổ như thế làm việc cấp bách, thì thệ nguyện bi tâm của Đức Phật không được viên mãn, mà chúng sanh bị chìm đắm vĩnh viễn không được siêu thoát.

Song, nguyện hạnh đại bi tu hành trong nhiều kiếp lâu xa của Phật A Di Đà, mười kiếp đến nay không ngừng kêu gọi, đây chính là Ngài lấy việc cứu độ căn cơ đau khổ như thế làm việc cấp bách.

Vì thế, Đại Sư nói: Đại bi của Chư Phật đối với người đau khổ, tâm luôn thương xót nghĩ đến chúng sanh bị chìm đắm trong sinh tử, cho nên khuyên qui hướng về Tịnh Độ. Cũng như người chìm dưới nước, phải mau chóng cứu họ, còn người trên bờ thì cần gì phải cứu nữa?

Lại nói: Nhưng Quán Kinh này, Phật nói cho hàng phàm phu nghe, không có liên quan gì đến bậc Thánh.

Đức Thế Tôn xác định là hàng phàm phu, chẳng phải vì Thánh Nhân. Chứng tỏ Đức Như Lai nói Thập lục Quán Kinh này, chỉ vì chúng sanh bị chìm đắm, mà không có liên quan gì đến bậc Thánh của đại thừa hay tiểu thừa.

Do đây có thể biết: Mười ba pháp quán về định thiện và chín phẩm về tán thiện nằm trong bộ Quán Kinh, đều là điều mà Đức Thích Tôn nói cho hàng phàm phu chìm đắm ở đời ác ngũ trược nghe, hoàn toàn không có liên quan gì đối với Bậc Thánh cả, cho nên không chỉ có chín phẩm cũng chẳng phải là Bậc Thánh, mà căn cơ định thiện cũng không phải Bậc Thánh.

Dù cho Phu Nhân Vi Đề Hi, tuy được các Sư nhận định bà là vị Đại Bồ Tát, nhưng ở Tự Phần nghĩa Đại Sư trước hết y cứ theo lời Phật nói bà là phàm phu, tâm tưởng yếu đuối, xác định Vi Đề Hi chẳng phải là bậc Thánh Nhân của đại thừa, mà chính là người bình thường.

Ngài nói: Nói chính xác Vi Đề Hi là hàng phàm phu chẳng phải bậc Thánh, vì chẳng phải Thánh, nên ngưỡng mong nhờ Phật lực gia hộ, mà cõi nước Cực Lạc tuy xa nhưng có thể được thấy.

Kế đến quán Tòa hoa của phần Định thiện nghĩa nói: Vi Đề Hi thật là nữ phàm phu cấu bẩn không đáng nói, nhưng nhờ sức Phật gia hộ nên lúc Phật A Di Đà hiện ra, bà mong được đảnh lễ.

Lại ở trong Bát chu tán, có nói: Vi Đề Hi tức là hình tướng người nữ, hàng phàm phu đầy đủ tham, sân.

Nói tóm lại, cả bộ Quán Kinh là Kinh được nói ra để cứu độ hàng phàm phu trong đời ngũ trược, là Kinh Điển nói cho hàng phàm phu, chỉ ra căn cơ được giáo hóa chính của Tông Tịnh Độ lấy hàng phàm phu làm gốc, là Kinh Điển nói rõ tất cả về hàng phàm phu.

Tin nhận sự cứu độ của Phật A Di Đà, chuyên xưng danh hiệu Phật A Di Đà thì chắc chắn sanh về Tịnh Độ Di Đà, là Kinh thuộc về cơ giáo tương ưng trong đời mạt pháp sau này.

Do Đức Thích Tôn quán thấy Kinh Bát Chu Tam Muội mà làm ra những bài kệ tán thán Tịnh Độ, nói rõ pháp Bát Chu Tam Muội hành đạo vãng sanh. Căn cơ chúng sanh và giáo pháp đã thành tựu mà Ngài nói ra, Kinh này là Pháp cứu độ của Phật A Di Đà, là phương pháp để hàng phàm phu được cứu.

Báo thân Di Đà, Báo độ Cực Lạc, phàm phu nhập Báo, toàn nhờ nguyện Phật.

Vấn đề có liên quan đến Tịnh Độ của Phật A Di Đà là Báo độ, hóa độ. Các Sư gọi đó là ứng hóa độ, cho rằng đã là Tịnh Độ thì phàm phu cũng có thể vãng sanh, là ứng hóa độ thuộc hạng thấp kém, hoặc gọi đó là Phàm Thánh đồng cư độ, cho rằng đã là Tịnh Độ mà hàng phàm phu và Thánh Nhân đều có thể vãng sanh, thì phải là Tịnh Độ thấp nhất trong đó hàng phàm phu và Thánh Nhân cư trú lẫn lộn.

Về vấn đề này, Đại Sư Đạo Xước đã chỉnh sửa trong chương Tam Thân Tam Độ thuộc đại môn thứ nhất của tác phẩm An Lạc Tập, nói rõ về Tịnh Độ của Phật A Di Đà là Báo độ chẳng phải là hóa độ.

Nay trong tiết Hội thông nhị thừa chủng bất sanh của phần Huyền Nghĩa, Đại Sư nhận định Tịnh Độ của Phật A Di Đà chẳng phải là ứng hóa độ, cũng chẳng phải là Phàm Thánh đồng cư độ, mà là Báo độ vô cùng tuyệt diệu, đó gọi là Báo độ chẳng phải hóa độ, đồng thời nêu ra ý nghĩa về ba bộ Kinh như Kinh đại thừa đồng tính, Kinh Vô Lượng Thọ và Quán Kinh để chứng minh là Báo độ chẳng phải hóa độ.

Nhưng mà Báo độ vô cùng tuyệt diệu như vậy thì hàng phàm phu làm sao được vãng sanh?

Để nói rõ về nghĩa này, Đại Sư đặc biệt lập ra phương thức hỏi đáp, nói:

Hỏi: Đức Phật A Di Đà và cõi nước Cực Lạc đã nói báo, báo là tuyệt diệu, bậc Tiên Thánh khó đạt đến, phàm phu cấu chướng thì làm sao đến được?

Đáp: Nếu luận về chúng sanh cấu chướng thì quả thật khó mà đến được, chính là nương vào bản nguyện của Phật làm duyên mạnh mẽ, khiến cho năm thừa đều nhập vào Tịnh Độ.

Đây là luận về phàm phu nhập vào Báo độ rất thù thắng: Tịnh Độ của Phật A Di Đà là Báo độ tuyệt diệu, mà tất cả hàng phàm phu thiện hay ác đều có thể vãng sanh, sở dĩ được vãng sanh là hoàn toàn nhờ vào bản nguyện tha lực của Phật, chứ chẳng phải tự lực của hàng phàm phu.

Báo độ của Chư Phật tuy cũng là Tịnh Độ thù thắng vi diệu, không cần phải nói đến bản thân hàng phàm phu hay nhị thừa, mà đến cả hàng Bồ Tát cao cấp cũng không cách nào vào được.

Như trong phẩm Giáo hóa trong Kinh Nhân Vương có nói: Tam Hiền Thập Thánh trụ ở quả báo, chỉ có một mình Phật ở Tịnh Độ.

Nhưng Báo độ của Phật A Di Đà là nguyên nhân để thành tựu Tịnh Độ, nguyện báo đáp thứ mười tám nói: Chúng sanh trong mười phương, nếu không vãng sanh thì tôi không thành Chánh giác. Đã là Báo độ tuyệt diệu và đồng thời cũng là Báo độ của chúng sanh trong mười phương, mỗi một chúng sanh trên đến hàng Bồ Tát Đẳng giác, dưới đến kẻ mắc tội ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp và nhất xiển đề.

Thảy đều có thể vãng sanh về Báo độ mà không độ nào sánh bằng, là Báo độ siêu việt hơn Báo độ của Chư Phật. Đây chính là nói rõ sự đặc biệt thù thắng về nguyện lực của Phật A Di Đà.

Trong đoạn vấn đáp này, Báo độ tuyệt diệu… đều là hỏi Báo độ được thành tựu do nguyện lực của Phật A Di Đà, là pháp tánh thân độ, là cảnh giới bản thân của Phật A Di Đà, bậc Thánh đại thừa và bậc Thánh tiểu thừa dùng sức mình còn không thể tiến vào được, thì hàng phàm phu phiền não dữ dội, nghiệp chướng sâu nặng làm sao có thể vãng sanh?

Đối với việc này Đại Sư trả lời là vì phàm phu cấu chướng, dùng sức mình thì dĩ nhiên không thể vãng sanh tin căn cơ, nhưng do hoàn toàn nương vào sức của Phật A Di Đà cứu độ tin pháp, khiến cho năm thừa như người, Trời, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, đều vãng sanh về Báo độ.

Ở đây, Đại Sư nói về Đức Phật A Di Đà cứu độ căn cơ rất thấp, là hàng phàm phu nghiệp ác, vãng sanh về cõi nước Cực Lạc rất cao, là Báo độ tuyệt diệu.

Sự lợi ích thù thắng như vậy đều nương vào nguyện lực của Phật, cho thấy giáo pháp cứu độ của Phật A Di Đà là hàng năm thừa đều vào được, tất cả căn cơ đều được lợi ích. Chữ tề trong ngũ thừa tề nhập có nghĩa là đồng nhất, ở đây nêu ra nghĩa một nhân một quả.

Nếu luận về năm thừa thì phàm Thánh, thiện ác đều không giống nhau, do nhân có nhiều sự khác biệt nên quả cũng muôn lần khác biệt nhiều nhân nhiều quả. Nhưng mà năm thừa đều bỏ tự lực, cùng nương vào tha lực một nhân, đồng sanh về Báo độ, cùng chứng Pháp Thân một quả.

Chúng sanh trong mười phương có chúng sanh là Bồ Tát Đẳng giác, cũng có chúng sanh phạm tội ngũ nghịch và phỉ báng chánh pháp, nếu dựa vào tự lực thì quả báo của mỗi người đều có nhiều sự khác biệt và muôn lần khác biệt, nếu nương vào nguyện lực của Phật A Di Đà thì hàng thượng căn hay hạ căn cũng như nhau, cùng vãng sanh về Báo độ tuyệt diệu, cùng chứng ngộ quả vị cứu cánh quang minh và thọ mạng.

Có thể biết rằng vãng sanh Tây Phương chẳng phải nương vào tự lực, mà hoàn toàn nhờ vào sức Phật, cho nên không cần luận về tư cách thân phận của chúng sanh: Bất luận người nam hay nữ, già hay trẻ, bất luận là xuất gia hay tại gia, người hiền đức hay kẻ ngu, bất kể tội nặng hay nhẹ, bất kể thực hành hữu vi hay vô vi, bất kể tâm tịnh hay bất tịnh, bất kể niệm nhất tâm hay không nhất tâm, bất kể tất cả, chỉ cần tin Đức Phật A Di Đà cứu độ.

Chuyên xưng danh hiệu Phật A Di Đà thì nhất định vãng sanh về Tịnh Độ của Phật A Di Đà, cũng tức là chỉ cần nương vào Phật lực không thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà thì dù cho tội thập ác hay ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp hay xiển đề đều được vãng sanh. Vì thế, vãng sanh Cực Lạc không nói tới tự lực mà chỉ nói đến tha lực.

Người muốn sanh về Tịnh Độ thì trước hết phải biết bản nguyện của Phật A Di Đà, Phật A Di Đà đã sẵn sàng vì chúng ta mà Ngài thành tựu Thế Giới Cực Lạc, sẵn sàng vì chúng ta mà thành tựu công đức tư lương để vãng sanh, cũng sẵn sàng vì chúng ta mà thành tựu sức danh hiệu công đức để tiêu trừ tất cả tội nghiệp đã tạo từ nhiều kiếp đến nay.

Do chúng ta không biết cũng chẳng tin cho nên chưa có thể nhận lấy công đức của Phật A Di Đà, vì thế tiếp tục bị lún sâu trong luân hồi sanh tử. Ngày nay tin và biết được việc này rồi nương vào nguyện lực của Phật A Di Đà, niệm danh hiệu Ngài thì chắc chắn được vãng sanh, tin như vậy một phen tin thì vĩnh viễn tin, suốt cả cuộc đời không còn hoài nghi nữa.

Nếu không nương vào nguyện lực của Đức Phật A Di Đà thì hàng Bồ Tát Đẳng giác cũng không thể vãng sanh, huống gì là hàng phàm phu?

Nếu luận về phàm phu thì còn không có sức để thoát ly sáu nẻo luân hồi, huống gì vãng sanh về Báo độ tuyệt diệu?

Nếu năm thừa mà tu tự lực thì chẳng phải là cái nhân để nhập vào Báo độ, chỉ nhờ vào nguyện lực của Phật A Di Đà mới là chánh nhân, đó gọi là: Báo độ của Di Đà thành tựu, chúng sanh tự lực không thể đến, Thánh phàm thiện ác đều như nhau, chỉ nương bản nguyện lực Di Đà.

Bất luận căn cơ nào, bất kể thiện hay ác đều vãng sanh về Báo độ, chỉ nương theo nguyện lực của Phật A Di Đà chứ không nương vào sức tự thân của hành giả.

Tâm của chúng sanh đều loạn tưởng phiền não rất nhiều, hạnh không chân thật, chỉ có Phật A Di Đà là tâm thanh tịnh, hạnh chân thật. Vì thế, không cần luận về sức tu hành của chúng sanh, mà chỉ bàn về sức cứu độ của Phật A Di Đà.

Không thể dựa vào tính cách của chúng sanh mà nói vãng sanh hay không vãng sanh, phải nương vào sự cứu độ của Phật A Di Đà mà hỏi tin hay không tin. Người tin thì được vãng sanh còn người nghi thì không được vãng sanh.

Pháp môn Tịnh Độ lấy hàng phàm phu làm chánh cơ, bản nguyện xưng danh thì vãng sanh về Báo độ. Cũng tức là người cực ngu thấp nhất, nương vào pháp cực thiện cao nhất thì vãng sanh về cõi nước cực cao vi diệu nhất.

Chín phẩm đều là phàm phu, Cực Lạc là Báo độ, phàm phu nhập Báo độ đều nương vào bản nguyện của Phật A Di Đà.

*