Phaùt taâm boà ñeà
Nhaát höôùng chuyeân nieäm

tinhkhongphapsu.vn

TẬP THẦN CHÂU TAM BẢO CẢM THÔNG LỤC - PHẦN HAI

TẬP THẦN CHÂU TAM BẢO

CẢM THÔNG LỤC

Giảng giải: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Thích Đạo Tuyên, Đời Đường
 

PHẦN HAI
 

Vua hỏi: Là vua A Dục hóa thân của đứa bé cúng đắt đó sao?

Nếu thật thì đó là một trong tám vạn bốn ngàn Tháp.

Sơn Tăng thưa: Chưa biết thật hư, tương truyền đó là Chùa A Dục Vương, cứ ba mươi năm xuất hiện một lần. Đầu niên hiệu Trinh Quán đã từng xuất hiện. Giờ đã đủ kỳ hạn xin hãy ứng hiện.

Vua nói: Nếu có được Xá Lợi thì trẫm nguyện đến tháp hành đạo bảy ngày, xin cho thấy điềm lành. Rồi cúng dường năm ngàn đồng tiền và năm mươi xấp lụa. Ngày năm tháng mười, Trí Tông và người hầu Vương Trường Tín rời Kinh Đô, đến tối mùng sáu thì đến tháp.

Trí Tông vào Tháp chuyên tâm khổ luyện, đến canh ba ngày mùng mười, Trí Tông đốt hương thành tâm cầu khẩn, chợt nghe có tiếng phát ra từ pho tượng, đến xem thì thấy ánh sáng phát ra từ các bức tượng với đủ màu sắc rực rỡ, tạo thành chiếc lọng báu. Trí Tông định mời Chư Tăng đến thì thấy trong Tháp có vô số Chư Tăng đứng chắp tay, ánh sáng dần hạ xuống, cách đất ba thước thì Chư Tăng biến mất. Lúc đó Trí Tông mới biết là Phật hiện, liền kêu người hầu cùng đến xem điềm lành.

Sáng hôm sau họ thấy một hạt Xá Lợi lớn hơn hạt gạo, tìm kỹ thì được bảy hạt nữa, tất cả đều sáng rực. Tông dâng sớ tâu vua, vua cấp ba ngàn xấp lụa, cho tạo Tượng vua A Dục, và sửa chữa Tháp, đặt tượng trong Tháp. Như vậy khai hiển Xá Lợi Phật là khai mở phước tuệ. Chư Tăng sửa sang lại làm cho ngôi Tháp cổ càng trang nghiêm. Ngày đầu mở Tháp có hơn hai mươi người, ai nấy đều được thấy Xá Lợi.

Chỉ có một người không thấy. Người ấy buồn khổ bức tóc vổ đầu, khóc cầu, mọi người đặt Xá Lợi trong bàn tay người ấy tuy cảm thấy nặng nhưng vẫn không nhìn thấy. Do đó những người đến yết kiến sợ không thấy Xá Lợi, không dám thấy ánh sáng. Vài ngày trước khi chiếu chỉ đến, dân chúng ở phía Đông Chùa thấy ánh sáng màu đỏ rực, người thì thấy cầu vòng vụt thẳng lên Trời, người thì thấy ánh sáng như tranh vẽ.

Chư Tăng tán tụng: Xá Lợi không lâu sẽ hiện điềm này như niên hiệu Trinh Quán. Xá Lợi như ngón tay nhỏ, dài một tấc hai phân, trong ngoài vuông vức, dưới bằng trên tròn sáng rực, đại chúng đều thấy ánh sáng khác thường. Lúc ấy dân quan, đạo tục từ Kinh thành đến làng xóm trong vòng hai trăm dặm đều kéo về xem, khen ngợi đức của Phật.

Thầy Tuệ Mẫn trụ Chùa Từ ân ở Kinh Đô đến hành đạo, bỗng thấy một đôi mắt sáng rực nên kêu mọi người cùng đến chiêm ngưỡng. Đó là vào tháng ba niên hiệu Hiển Khánh năm thứ năm. vua ra lệnh đưa Xá Lợi về Kinh cúng dường, lại có cả xương đỉnh của Phật cao năm tấc, rộng bốn tấc, màu vàng tía. Khi sắp đến Kinh Đô, vua mời bảy vị Tăng về hành lễ.

Chư Tăng nói: Đây là chân thật của Phật, Chư Tăng nguyện tôn thờ cúng dường, sau một đêm Chư Tăng mới đưa vào cung. Hoàng Hậu cúng dường một ngàn xấp lụa để làm quách bạc quan vàng đựng Xá Lợi. Niên hiệu Long Sóc năm thứ hai đưa về Tháp cũ. Vua ra lệnh Chư Tăng ở Kinh đô và ở Chùa Tháp, cùng quan dân hơn ngàn người cất Xá Lợi trong hang đá, để ba mươi năm sau sẽ lại hiện điềm lành.

Ở thôn Vương Trang làng Hoa Dương huyện Kỳ Sơn, Kỳ Châu có một người tên Bằng Huyền Tự, người này không tin Phật Pháp. Nghe Xá Lợi Phật được cất gần đó, mẹ và anh đến lễ bái, Tự không cho đi, mẹ và anh vẫn đi.

Khi về Tự tức giận nói: Việc này có công đức gì?

Nếu Xá Lợi có công đức thì tượng Phật trong nhà cũng có công đức, rồi đem tượng đốt, xem có linh nghiệm gì. Mẹ và anh can ngăn nhưng tượng đã bị cháy một nửa. Huyền Tự bỗng bị ngất xỉu.

Khi tỉnh dậy, Tự kể: Thấy mình đến một nơi như địa ngục, chim lớn bay đến mổ mắt, rúc thịt, bị thiêu đốt trong hầm lửa, đưa tay sờ mặt thì lông mày, râu tóc rụng rơi, nhìn thấy Trời đất tối tăm.

có người nói: Ngươi tự tạo tội không ai thay được.

Huyền Tự không biết gì nên không trả lời, nói: Lửa đốt tâm tôi, rồi cứ chạy khắp nơi, lại bi đánh đập nêu cứ kêu xin sám hối. Ngày mười ba tháng hai Tự chạy đến chỗ Tháp, thấy Pháp Sư giảng Kinh, Chư Tăng ni, dân chúng đều thấy Huyền Tự quì trước Tháp khóc lóc sám hối tội không tin, pháp phạm hạnh ni, đánh Tăng Chúng, trộm trái cây. Sau đó Tự ngủ thiếp đi, biết giá trị của xương đỉnh Phật nên cúng bốn ngàn xấp lụa. Xương đỉnh hiện vẫn còn.

Tháp thứ sáu: Bị phá vào thời Chu, nhà Tùy phục hưng giáo pháp nhưng không sửa sang Chùa. Sau xây tường quanh Chùa Tháp, thấy có phát ra ánh sáng, đạo tục đều tôn kính, cầu phước mong được ứng hiện.

Tháp thứ bảy: Triều Chu thấy có nền pháp, tương truyền đó là Tháp do vua A Dục xây. Những người bị tai họa thường đến cầu phước ở đây.

Tháp thứ tám: Cách phía Tây thành một dặm, cách phía Nam Chùa Bạch mã một dặm. Tục truyền đó là Tháp do vua A Dục xây, nghi là do Ngài Ca Diếp Ma đằng đem sang để hàng phục tà đạo, hiển chánh đạo.

Tháp thứ chín: Theo các sách thì ở Cô Tạng có Tháp do vua A Dục xây. Nhưng quận Cô Tạng nay thuộc Châu huyện. Theo Hán Thư, Hà Tây có bốn quận. Trương Dịch, Cô Tạng, Tửu Tuyền, Đôn Hoàng, nhưng không rõ về Tháp.

Tháp thứ mười: Cách một trăm hai mươi dặm về phía Đông Cam Châu, gò đất bên đường lớn phía Bắc Nhược thủy tương truyền là Tháp do vua A Dục xây, nhưng từ lâu đã bị hoang phá, nay ghi là Tháp Cô tạng.

Tháp thứ mười một: Đạo tục xa gần đều cho đó là Tháp của vua A Dục xây, tôi có đến đó. Địa thế rất lạ, không giống làng xóm.

Tháp thứ mười hai: Tục truyền đó là Chùa A Dục Vương, thời Chu ở đây thuộc đất Rợ phương Bắc Bắc Địch. Như theo thơ cổ thì đây không phải là đất của Bắc Địch. Vốn là đất của người Hoa Hạ bị Bắc Địch xâm chiếm.

Tháp thứ mười ba: Ở phía Tây thành, vốn tên là Đại Thạch, tương truyền: Quỷ thần vâng lời vua A Dục, dùng đá ở núi Tây làm nền Tháp, Xá Lợi đặt bên trong nên gọi là đại thạch. Đời Tùy, vua cho đào Tháp nhưng chỉ thấy đá, không thấy đầu mối. Nhân mưa to gió lớn người ta đào một mảnh đá lại là ngọc báu. Đầu đời Đường, Luật Sư Sằn thấy di tích cổ nổi lên ngôi Tháp cổ chín tầng, nay thuộc Ích Châu.

Những lúc lụt lội, hạn hán quan dân đến đây cầu cứu đều hiện ứng nên gọi là Tháp Phúc Cảm. Tôi có đến xem quả đúng như lời đồn. Trộm cắp đến đây lấy trộm thì bị thần linh hại, hắn tự kêu lên, Chư Tăng đến cứu. Niên hiệu Vĩnh Hưng năm thứ nhất, Vương Nhan Tử đến Tháp trộm vật, bỗng hai trụ đá khép lại, không thoát ra được.

Một vị phạm Tăng bảo hãy la lớn lên là có trộm, nếu không thì sẽ chết, tên trộm liền xướng lên vài tiếng, Chư Tăng trong Chùa nghe cầu cứu chạy đến cứu, mới thoát ra được. Niên hiệu Trinh Quán có trận động đất, Tháp sắp đổ, dân chúng lại thấy có bốn vị thần đưa lưng đỡ Tháp. Một người giàu có thấy mặt Tháp ngắn nên cúng ba trăm lượng vàng để sửa lại. Tự nhiên có mùi thơm bay ra thơm ngát một vùng, mười ngày sau mới hết.

Tháp thứ mười bốn: Cách Châu hơn một trăm dặm về phía Tây Nam, hiện có ngôi Chùa tên là Đẳng Chúng, xưa tên là Đại Thạch. Nhân duyên như trước, có người cho rằng cách Ích Châu một trăm dặm về phía Bắc có ngôi Tháp ở Huyện Lạc, trong Chùa Bảo Hưng, vốn tên là Đại Thạch. Đầu đời Tùy có Pháp Sư Đàm Ma Quật Xoa đến Đông Hạ lễ bái Tháp do vua A Dục xây. Lễ bái xong Pháp Sư về thành đô nghỉ, đêm đó nghe thấy tiếng động.

Pháp Sư hỏi, trong hư không có tiếng đáp: Mười hai thần Vương theo bảo hộ Pháp Sư, mai định trở về nên đến từ biệt Pháp Sư.

Pháp Sư hỏi: Nếu thế sao không hiện thân, các thần liền hiện thân. Pháp Sư vốn vẽ giỏi nên vẽ lại hình ảnh mười hai vị thần, sau Luật Sư Sằn cho khắc tượng gỗ thờ ở dưới Tháp, hiện vẫn còn.

Sa môn Đạo Trác Chùa Pháp Thành thấy Tháp hoang phế liền xây Tháp gỗ, xung quanh Tháp có ba cái ao không biết sâu hay cạn nhưng là chỗ ở của ba con rồng nên không ai dám xem. Niên hiệu Trinh Quán năm thứ mười ba, ba con rồng tranh đấu nhau, chấn động cả đất Trời. Sau trận chiến ngôi Tháp vẫn nguyên vẹn, mọi người nhặt lông rồng dài ba thước, màu vàng đỏ.

Tháp thứ mười lăm: Ở ranh giới huyện Mật, cách Châu hơn trăm dặm về phía Tây Nam. Tháp nằm ở phía Đông Nam, phía Bắc tháo tiếp liền với Chùa, rộng mười lăm bộ, nền Chùa Tháp là bùn đất, phía Tây Nam đều có suối rộng ba thước, nước chảy mạnh, tưới khắp gần xa. Trên lớp đất là trụ gỗ, trên là tảng đá rộng tám thước. Mọi người đều cho là do Luân Vương làm nên.

Pháp Sư Đạo Nghiêm họ Lý, người U Châu, từng được Tùy Dạng Đế mời vào cung, năm một trăm lẻ năm tuổi Pháp Sư vào ở trong núi, mỗi năm đến Tháp này bảy ngày để cúng dường.

Thấy dưới suối có hiện tượng lạ, liền nhờ người thợ lặn đến xem, thấy xung quanh toàn là trụ đá, ở giữa có bảo Tháp cao ba thước, xung quanh là nước, nên không dám đến xem. Tục truyền đó là Tháp của do A Dục xây. Từ đó đến nay Chùa Tháp vẫn còn. Phía Nam Chùa là núi Quy sơn, phía Tây là núi Tung Sơn.

Chùa ở dưới nước. Mỗi năm nước từ hai núi thường chảy về Đông nhưng đều chảy quanh phía Bắc Chùa trước. Nước đầy Chùa cao, nước rút Chùa thấp, xưa nay không hề bị ngập. Suối hay phun nước hình hoa sen, về sau nước không phun nữa. Vì nơi đây cảnh sắc đẹp nên vua định xây cung điện nhưng nền Tháp bền chắc không đào được, vua đành bỏ ý định. Sau có vị Tăng thấy ánh sáng hiện lên từ Tháp.

Tháp thứ mười sáu: Cách huyện Vũ Lăng bảy dặm về phía Tây. Trong Chùa Diệu lạc có Tháp trắng năm tầng, vuông mười lăm bộ, được làm bằng đá dài năm thước, rộng ba tấc, mọi người đều cho là quỷ thần làm nên. Vì không tìm thấy nền. Tương truyền Tháp này từ đất vọt lên, phía dưới là nước. Quan thứ sử không tin, cho người đào lên, đến nước vẫn không thấy có nền Tháp.

Tháp thứ mười bảy: Vốn là nơi Tăng ở, từ đầu đời Đường về sau, Tăng đi Chùa vắng, chư ni ở đó. Tôi có đến hỏi về ngôi Tháp nhưng không còn dấu vết.

Tháp thứ mười tám: Ở trong Chùa A Dục Vương có ngôi Tháp nhỏ, tương truyền đó là Tháp báu.

Tháp thứ mười chín: Cách huyện ba mươi dặm về phía Tây Bắc, vốn có tên là Chùa Xá Lợi, hiện có chư ni ở, ba mặt Tháp là nước, mặt tây có đường, nên Tháp là đá, ba mặt Tháp hoa sen mọc đầy, nước rất sâu, không ai dám vào. Tương truyền Tháp Xá Lợi ở dưới nước.

Tháp thứ hai mươi: Ở Trường hà, Thương Châu có Tháp do vua A Dục xây. Ở mặt Bắc ngoại ô ba Châu Ngộ, Nghi, Lương có Phật xuất hiện, mọi người cho là luống dối. Sự thật trong núi có tượng Phật bằng đá cao ba trượng. Phía Đông huyện Lâm Ấp, Tề Châu có Tháp gạch, nghe nói do Chí Công xây, bốn mặt Tháp có thú đá hình thù rất đáng sợ.

Nhà Chu diệt pháp sai người đào phá nhưng không được. Có người nói Tháp ở thành Liêu Đông, Cao Lệ. Tương truyền vua Cao Lộ đến thành này thấy mây năm màu che phủ, trong mây có vị Tăng đứng cầm tích trượng, vua tìm đến thì không thấy gì.

Nhìn ra xa lại thấy có Tháp ba tầng, không biết là gì vua tiếp tục tìm vị Tăng nhưng chỉ thấy cỏ hoang, đào sâu một trượng thì thấy bài minh khắc bằng tiếng Phạm, hỏi ra mới biết là Tháp Phật, nước Hán có vị vua kính tin xây Tháp gỗ bảy tầng.

Sau pháp Phật được truyền đến nơi này. Nhưng Tháp đó đã hư chỉ còn Tháp do vua A Dục xây. Xưa có Hội Thừa người Nhật đến đây học kỹ nghệ. Cuối thời vua Vũ Đức vẫn còn, đến niên hiệu Trinh Quán năm thứ năm mới về nước.

Hỏi rằng: Nước ông pháp Phật truyền đến muộn, chẳng hay Tháp do vua A Dục xây đã có trên nước ông chưa?

Đáp: Tuy không có sử sách ghi lại nhưng dấu vết vẫn có. Nếu không thì sao người ta thường thấy Tháp cổ, tượng Phật. Chùa Không tuệ ở phía Nam thành Ích Châu có kho vàng, một Đạo Sĩ biết được nên nhờ thần linh xin, thần lấy ra hai nén vàng, Đạo Sĩ theo lời đến tìm thì thấy vô số Tháp vàng nhưng vì Chư Tăng trong Chùa biết được nên không dám lấy. Trong hang núi ở huyện Vị nam, Ung Châu có tảng đá treo hình chó sói nên đặt tên là Sài Cốc. Lại có tượng đá hình mặt Phật nên cũng gọi là Tượng Cốc.

Tương truyền: Xưa có vị Tăng Ấn Độ đến đây, bảo rằng trong hang có tượng bảy Đức Phật, vì bảy Đức Phật có đến đây nói pháp, trong đó thường xuất hiện hoa chiêm bặc. Giữa niên hiệu Vĩnh Huy, Sa môn Trí Tích đến tìm, đến hang ngửi thấy mùi thơm, Sa môn tìm kỹ mới biết cát trong khe rất thơm.

Người ta thường thấy trên núi này có hiện pháp Phật, hoặc hiện tượng Phật. Cách Chùa Ngọc hoa cung hai mươi dặm về phía Nam có núi Đàn Bát, trên núi có nền Tháp xưa, rộng bốn mươi ba thước, có ngôi Tháp gạch một tầng, bốn mặt đều có cửa đá cao hơn bảy thước, rộng hơn năm thước, xung quanh có gạch vụn. Tương truyền, Chu Văn Vương đi săn, thấy trên núi có Sa môn cầm tích trượng, bưng bình bát.

Vua bảo đến nhưng không đến, vua liền sai người bắt, đến gần thì không thấy nhưng nhìn xa vẫn còn, vua cho người đào chỗ Sa môn đứng thì thấy bình bát và tích trượng. vua liền cho xây Tháp gạch mười ba tầng, dân chúng ở đó thường nghe tiếng chuông. Niên hiệu Long Sóc năm thứ nhất, Sa môn Tuệ Quý Chùa Từ ân đến tìm.

Nghe tiếng chuông, Sa môn biết là Tháp xưa, muốn sửa chữa nhưng còn do dự, chợt có thiên thần hộ Tháp khuyên làm, một vị Tăng lại nói: Ta là Bồ Tát ở tịnh độ phương Nam du hóa đến đây, ngôi Tháp này đã trải qua bốn lần xây dựng, chớ ngại nhọc mệt, tâm thành là thỏa nguyện.

Sa môn liền bắt tay tôn tạo ba tầng Tháp. Phía Nam Tháp lại có ngôi Chùa cổ, lưng tựa vào núi, mặt hướng về phía sông, thật là một nơi Thánh tích. Trước lúc tu tạo Chùa Tháp, tiếng chuông vẫn vang lên đúng thời.

Niên hiệu Long Sóc năm thứ ba, người ta đào thấy một bài minh khắc: Niên hiệu Bảo Định nhà Chu Tháp bị đổ.

Lại ghi: Hơn bốn trăm năm Tháp bị hư. Xét từ niên hiệu Bảo Định đến nay là tám mươi mốt năm. Như vậy Tháp này có từ thời Hậu Hán. Vì nhà Chu không ghi nên không biết rõ, nhưng Tháp không thể là do người bình thường xây nên.

Ở Lô sơn, Giang Châu có ba trụ đá dài mấy mươi trượng, rộng chưa đầy một thước. Niên hiệu Hàm Khang đời Tấn, Du Lượng đến Giang Nam, lên núi thấy kỳ tích, biết không phải tầm thường nên bái tạ ra về. Niên hiệu Trinh Quán thứ hai mươi mốt nhà Đường, trụ đá phía Tây nam Tháp Chùa Hưng quốc, Kinh Châu tự nhiên phát ra tiếng, mọi người đến xem thì thấy xuất hiện đầu Phật đồng mạ vàng, suốt ba ngày mới hiện hết, dài khoảng sáu tấc, là tượng Phật đứng, mọi người đều thấy lạ.

Đầu đời Đường Tháp Chùa Đại Từ ở Tường Châu bị cháy, chúng tôi hỏi nguyên nhân, một vị Tăng nói: Cuối niên hiệu Đại Nghiệp trộm cướp nổi lên, dân chúng kéo về ở trong Tháp, làm ô uế.

Khi hết giặc, Chư Tăng không làm sao dọn dẹp được, bất chợt lửa bốc lên, đốt cháy tất cả, chỉ còn điện ở phía Nam. Có thể nói lửa giúp trừ mọi ô uế. Tháp này được xây từ thời vua Cao Tổ đời Tùy. Nhà Tùy mới lập, dân chúng chưa theo, họ Dương dấy binh làm phản, vua cử binh đánh phạt, bắt hơn trăm vạn người tập trung đợi giờ trảm quyết.

Nhưng bỗng nhiên vách vườn có lỗ hổng, bọn chúng tranh nhau chạy trốn, đến sáng thì không thấy lỗ hổng nữa, chỉ còn lại sáu mươi vạn người. Họ bị chém, thả xuống sông, làm cho nước sông không chảy được, dòng sông đỏ ngầu, đêm đêm tiếng quỷ khóc than, ai oán làm đau lòng người, thấy vậy vua liền cho xây Chùa Đại Từ, ngày đêm sáu thời lễ Phật, sám hối tội lỗi cho những người chết. Chùa xây xong, Chư Tăng về ở, từ đó không còn tiếng than khóc nữa.

***