Phaùt taâm boà ñeà
Nhaát höôùng chuyeân nieäm
TẬP THẦN CHÂU TAM BẢO
CẢM THÔNG LỤC
Giảng giải: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Thích Đạo Tuyên, Đời Đường
PHẦN NĂM
Hỏi ở Kinh nào?
Đáp: Ở Kinh Vô Lượng Thọ. Thứ sử cho tìm, quả đúng như lời nên ngừng lệnh sa thải. Tháng năm niên hiệu Đại Thông thứ tư, Vua cho người đến Chùa Bạch Mã cầu cúng, đang đêm thấy ánh sáng bay theo sứ giả.
Hôm sau lại tiếp tục cầu nguyện, tượng mới đi. Bốn chúng lưu luyến tiễn đến bến sông. Đến Kim Lăng, cách Kinh Đô một dặm, Vua đích thân ra đón rước, ánh sáng lại được phát ra, mọi người đều vui mừng, khen là việc ít có. Sau đó Vua thiết lễ suốt hai ngày.
Khi đưa từ cửa Đại thông ra vào Chùa Đồng thái tượng lại phát ra ánh sáng. Vua cho xây điện ba gian hai mái ở phía Đông Bắc Chùa, đặt tòa bảy báu để tôn tượng, lại cho đúc hai tượng Bồ Tát bằng đồng mạ vàng. Tháng ba niên hiệu Đại Đồng năm thứ hai Vua đến Chùa lễ Phật.
Vua vừa bước lên bậc cấp tượng liền phát ra ánh sáng, cảnh vật đều biến thành màu vàng đến nửa đêm mới trở lại như cũ. Sau Chùa bị cháy, tượng vẫn còn nguyên. Niên hiệu Thái Thanh năm thứ hai, tượng lại ra mồ hôi. Tháng mười một năm đó Hầu Cảnh làm loạn. Niên hiệu Đại Bảo năm thứ ba, giặc cướp được bình định, Pháp Sư Chùa Trường sa lại thỉnh tượng về Chùa cũ. Niên hiệu Đại Định năm thứ bảy thời Hậu Lương, tượng lại ra mồ hôi, tháng hai năm sau Vua Trung Tông băng.
Niên hiệu Thiên Bảo năm thứ ba, Chùa bị cháy, chỉ sáu người mà nâng được tượng ra ngoài trong khi trước kia trăm người nhấc không được. Niên hiệu Thiên Bảo năm thứ mười lăm, Vua đến lạy Phật sám hối. Năm thứ hai mươi ba Vua băng hà.
Vua Túc Tông đưa tượng về cung Nhân Thọ, tượng lại ra mồ hôi. Niên hiệu Quảng Vận năm thứ hai, nhà Lương bị diệt. Niên hiệu Khai Hoàng năm thứ bảy, Chư Tăng lại thỉnh tượng về Chùa Trường Sa. Quan thứ sử Kiềm Châu Điền Tôn Hiển đến Chùa lạy Phật, tượng lại phát ra ánh sáng.
Quan liền cho xây Chùa, đốn gỗ đưa về, nhưng đến Kinh Châu thì không thể đi tiếp, quan cho xây ở đó, Chùa được trang nghiêm rất đẹp, tượng được đặt ở hai điện Đông tây. Niên hiệu Đại Nghiệp năm thứ mười hai tượng lại ra mồ hôi, năm ấy Chu Sán cướp phá các nơi, phóng lửa đốt Chùa, mọi người đều sợ tượng bị đốt, đêm đó tượng bỗng bay lên, đến trước cổng Chùa Bảo quang.
Sau khi giặc tan, chỗ để tượng không bị cháy, người ta xây lại Chùa. Niên hiệu Phượng Minh năm thứ năm, Dương Đạo Sinh đến Chùa lễ Phật, tượng lại ra mồ hôi như mưa, tháng chín năm đó binh mã Đại Đường kéo đến đất Thục. Ngày mười hai tháng chín Sư Pháp Thông lạy Phật cầu điềm lành.
Đêm ấy ánh sáng soi sáng cả điện, mãi đến ngày hai mươi lăm mới hết. Hôm ấy binh mã của Triệu Quân Vương vào thành. tháng sáu niên hiệu Trinh Quán năm thứ sáu, Trời đại hạn, Vua quan thiết lễ cầu mưa, suốt bảy ngày đêm mọi người dốc lòng cầu nguyện, Trời liền tuôn mưa.
Quan thái thú Ngô Hưng tên Chu Tị, có một người con gái tin phụng pháp Phật. Một hôm, gia đồng đi bắt cá, thấy trên sông có một tượng vàng cao gần ba thước, dung mạo trang nghiêm, nổi trên mặt nước. Người ấy kéo nhưng không được, liền về tâu lại thái thú.
Thái thú cho đưa con gái mình đến xem. Thấy tượng người con gái vui vẻ kính lễ, vẫy tay, tượng bỗng nằm trên thuyền, họ đem về thờ ở nhà. Đêm ấy người con gái mơ thấy gối trái của Phật bị đau, tỉnh dậy xem thì thấy bị lỗ hổng, người con gái liền dùng kim thoa đắp vào.
Sau, thái thú gả con cho Trương Trừng, người con gái mang tượng theo. Sau đó người con gái bị bệnh qua đời, mọi người đều thấy các vị Trời đến rước. Họ Trương vì mãi lo thảo phạt giặc cướp nên bỏ trai giới, tượng Phật bị mất nhưng ánh sáng vẫn còn, cả nhà sám hối, tìm cầu. Sau đó có một bà lão đem tượng đến bán. Biết là tượng xưa cả nhà liền mua, bà lão liền biến mất, tượng cũng không còn.
Tượng gỗ ở Chùa Vân bảo núi Cối Kê đời Đông Tấn do họ Lục làm, ban đầu làm theo kiến trúc thời trung cổ nên tượng không có thần, sau theo kiến trúc Đông Hạ nên tạo tượng rất đẹp, mọi người đều thích chiêm ngưỡng.
Một người đốt hương khấn: Nếu thường còn thì xin cho thấy diện mạo vàng của Phật, nếu là vô thường thì xin ở trước Đức Di Lặc, liền tỏa mùi thơm cả Chùa. Tượng vẫn còn ở Chùa Gia tường, Việt Châu.
Niên hiệu Thái Nguyên năm thứ hai đời Đông Tấn, Sa Môn Tuệ Hộ đúc tượng Đức Thích Ca cao một trượng sáu, bằng vàng, ở Chùa Thiệu Linh, quận Ngô. Sa Môn đúc tượng trong hang đá ở phía Nam Chùa.
Đêm đúc xong, trong hang có hoa trắng xuất hiện, sáng sớm mây trắng vần vũ trên hang, trong hang có con rồng dài mấy mươi trượng quấn quanh hang, dường như kính ngưỡng pho tượng, gió lặng, Trời trong, mưa phùn làm Tăng thêm mùi thơm. Khi đưa tượng vào pháp tòa, rồng bay lên Trời. Sau đó có người sửa chữa lại pho tượng.
Niên hiệu Nghĩa Hy năm thứ nhất đời Đông Tấn, Tư Đồ Vương Mật vào cung, ở cửa Đông dịch, người hầu thấy ở cửa có ánh sáng năm màu, liền chạy vào xem thấy tảng đá cổ, dưới đó là một tượng vàng cao bốn thước, tượng này giống như tượng mà Tôn Hạo thấy, liền thỉnh về cung. Tống Tổ vốn không kính tin nhưng khi được tượng này thì càng tin, liền đích thân lễ cúng. Tượng này vốn ở Chùa Ngõa quan, sau dời về Chùa Long quang.
Tượng Thái Tử tư duy ở Từ Châu đời Đông Tấn, xưa Sa Môn Pháp Hiển đến Thiên Trúc chiêm bái Thánh tích. Sa Môn đến ở trong một ngôi Chùa nhỏ, vị chủ trì có việc đi xa nên bảo chú tiểu đi khất thực để cúng dường Sa Môn.
Lát sau chú tiểu trở về, bàn chân bị chảy máu, Sa Môn hỏi thì chú tiểu nói đến nhà Ngô Thương Ưng ở Bành Thành để khất thực, bị chó cắn, Sa Môn thấy lạ vì cách quá xa, sau mới biết đó không phải là người thường. Sau khi về nước Sa Môn tìm hỏi nhà họ Ngô bảo là có việc, hiện trên cửa vẫn còn vết máu.
Sa Môn bảo, đó là máu của vị La Hán. Nhà họ Ngô liền sửa nhà thành Chùa, đến Dương Đô thỉnh Kinh Tượng. Họ đến giữa sông Tế thì thuyền bị nghiêng, có hai cột dài một trượng từ nước vọt lên thuyền. Khi đem lên bờ, họ mới biết là răng rồng. Đến sông Tế, họ Ngô lên bờ nghỉ, bỗng thấy một vị Bà La Môn mang một pho tượng nói là đem cho họ Ngô. Khi đem về Kinh có người mô phỏng thành ngàn pho giống nhau.
Họ Ngô tìm tượng của mình thì mộng thấy rõ tướng tượng nên đã tìm được, đưa về Từ Châu. Ngụy Hiếu Văn lại thỉnh về Bắc Đài, Tề Hậu chủ sai Thường Bưu thỉnh về đất Nghiệp. Sau nhà Tùy lên tượng lại hiển linh, hiện ở Chùa Đại Từ, Tương Châu.
Tượng Bồ Tát Văn Thù ở Lô Sơn đời Đông Tấn. Một người làng chài mơ thấy ánh sáng trên bờ biển, liền tâu lên đại thần Đào Khản. Khản cho người tìm biết là Tượng Bồ Tát Văn Thù do Vua A Dục đúc tạo.
Tương truyền Vua A Dục thống trị vùng này, ma quỷ quấy rối, Vua làm nhà ngục để chế phục. Đêm đó, Vua thấy Văn Thù đứng trong vạc dầu, khi đốt lửa, tự nhiên có hoa sen xanh mọc lên. Vua tỏ ngộ liền phá hủy ngục, xây tám vạn bốn ngàn ngôi tháp và tạo vô số tượng.
Lúc đầu Khản không tin nhân quả nhưng khi thấy việc này thì kính tin, Khản đưa tượng về Chùa Hàn Khê ở Vũ Xương, sau dời về Kinh Châu nhưng mấy mươi người đưa tượng lên thuyền thì thuyền bị chìm, Khản liền đưa về Chùa cũ. Sa Môn Tuệ Viễn liền thỉnh về Lô Sơn. Cuối đời Tùy giặc cướp phá, Tăng Chúng bỏ đi, một lão Tăng đến từ biệt tượng.
Tượng bảo: Ông đã già không nên đi. Lão Tăng liền ở lại. Lúc đó giặc cướp đến quấy phá, vào Chùa tìm vàng, chúng bắt lão Tăng đòi vàng, biết không có, chúng định giết, lão Tăng xin giết bên ngoài để không làm ô uế Chùa.
Lúc sắp bị giết lão Tăng nói: Suốt bảy mươi năm chưa từng phụ lời Phật, lại xin tên cướp đợi khi mình đưa cổ ra hãy giết. Lão Tăng làm vậy, tên giặc hạ đao, dao lại đâm trúng tên giặc. Bọn giặc tẩu tán thì bị sấm sét đánh chết. Từ đó giặc cướp không dám lên núi. Tượng hiện còn ở Chùa Đông lâm trên núi.
Tượng ở Lương Châu thời Nguyên Ngụy. Niên hiệu Đại Diên thứ nhất, Sa Môn Lưu Tát Hà đến Kim Lăng lễ tháp Xá Lợi, xong việc Sa Môn đi về phương Tây, đến phía Đông bắc huyện Phan Hòa cách Tương Châu một trăm bảy mươi dặm, Sa Môn liền nhìn lên núi, bảo có tượng linh hiện. Tượng đủ thì thời bình, thiếu thì thời loạn, dân khổ.
Tám mươi bảy năm sau, niên hiệu Chánh Quang năm thứ nhất, gió bão nổi lên, trên núi hiện tượng đá cao một trượng tám, hình tướng trang nghiêm nhưng không có đầu.
Sau đến đầu nhà Chu, người ta tìm thấy đầu tượng cách thành bảy dặm về phía Đông, đem ráp vào thì rất khớp với thân tượng. Từ đó ánh sáng thường hiện, tiếng chuông vang xa. Niên hiệu Bảo Định thứ nhất, Vua nhà Chu xây Chùa đắp tượng.
Khi Kiến Đức sắp diệt, đầu tượng lại bi rơi. Vũ Đề sai Tề Vương đến xem, Vương sai đặt đầu tượng lên thì lại rơi xuống, sau đó nước mất, pháp không còn. Niên hiệu Đại Nghiệp năm thứ năm, Dạng đế đi đánh phía Tây, Vua đến đây lễ Phật, đổi thành đạo tràng Cảm Thông, hiện vẫn còn.
Tượng đất trên núi đá ở Lương Châu: Đây là vùng đất thịnh nhất trong năm Châu ở Lũng Tây. Tất cả Chùa Tháp trong cung điện ở đây thường bị lửa cháy. Nếu xây dựng lại thì cũng bị như trước. Nếu dùng vàng bạc để làm thì lại bị trộm cướp. Cho nên là người ta thờ Phật bằng đá, bằng đất ở phía Nam của Châu. Người đến lễ bái đều rất ngạc nhiên vì họ thường thấy có vị Tăng kinh hành xung quanh, việc này kéo dài hơn trăm năm.
Vương Mông Tốn ở Hà Tây, Hà Bắc vì mẹ mà làm tượng đá cao một trượng sáu đặt ở Chùa Vu Sơn. Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ sáu nhà Tống, thế tử Hưng Quốc dấy binh bị hại, chết. Tốn rất tức giận, cho là thờ Phật không linh, liền hạ lệnh đập phá Chùa Tháp, đuổi Tăng ni. Hôm Tốn đến núi Dương Thuật Chư Tăng đứng bên đường đợi, thấy họ Tốn giận dữ chém chết mấy người. Tướng sĩ đến lạy Phật, thấy tượng rơi lệ, liền tâu với Tốn.
Đến trước cổng Chùa, Tốn thấy người mệt mỏi, những người xung quanh đỡ đến xem tượng, quả thấy tượng khóc, Tốn cúi lạy tạ tội, lập trai đàn, thỉnh Chư Tăng trở về. Tội ác rất lớn nên Tốn lo sám hối, cho dịch Kinh Đại Niết Bàn. Sau Tốn bị giết. Hiện ở trên núi cách Sa Châu ba mươi dặm về phía Nam còn hai trăm tám mươi bức tượng Phật.
Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ hai đời Tống, Lưu Thức Chi tạo tượng Bồ Tát Văn Thù, đêm ngày lễ bái, nhưng bỗng nhiên tượng bị mất, họ Lưu ngày đêm thỉnh cầu, năm năm sau, họ Lưu thấy trên tòa sen có ánh sáng rực rỡ, họ Lưu liền đốt hương, quét dọn thì thấy tượng cũ trở về.
Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ hai đời Tống, Lưu Nguyên Chi, người Trường Sơn, Đông Dương, làm nghề nông, một hôm đốt cỏ, thấy một chỗ cỏ không bị cháy, họ Lưu ngạc nhiên không dám khai khẩn nữa. Ít lâu sau họ Lưu đào thấy một pho tượng đồng cao gần ba tấc, không biết từ đâu đến.
Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ mười bốn đời Tống, Tỳ Kheo ni Tuệ Ngọc, Chùa Linh mộc, Giang lăng tu hành tinh tấn. Xưa ở Chùa Thượng Thư, ni Sư thấy cầu vồng trắng, tìm đến thì thấy tượng Đức Di Lặc bằng vàng cao một thước. Giờ ở Chùa này lại thấy ánh sáng chiếu sáng cả khu rừng, Sư nói mọi người nhưng không ai thấy. Sau đó vị chủ trì tìm thấy một tượng bằng vàng cao gần một thước.
Niên hiệu Gia Nguyên năm thứ mười bốn nhà Tống, gia đình Tốn Ngạn kính tin Phật Pháp. Người thiếp chuyên tụng Kinh Pháp Hoa. Một hôm thấy ở dưới đất có ánh sáng sáng, cho người đào thì được một pho tượng vàng cao hai thước một tấc.
Chân tượng có ghi: Sư Pháp Tân Chùa Ngõa quan làm vào năm Canh Tý, niên hiệu Kiến Vũ năm thứ sáu.
Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ hai mươi mốt nhà Tống. La Thuận làm tướng Bình Tây Phủ, tháng mười hai họ La thả chim ưng về rừng, đốt lửa, nhưng có một chỗ không bị cháy, họ La đến nơi thì thấy một pho tượng Bồ Tát bằng vàng cao một thước, được làm rất khéo léo, họ La cho là trộm cướp, liền rao tìm người mất, không thấy ai đến xin tượng họ La liền thờ phụng.
Khang Vương nhà Tống xây Chùa trong thành Kinh Châu để thờ Kinh Tượng. Trên vách Chùa có rất nhiều tượng vẽ Bồ Tát, gia thế Dương Văn Vương, Khang Vương cho xóa đi nhưng càng xóa tượng càng rõ, họ Khang lại cho hủy vách ấy thì bị bệnh, nhắm mắt là thấy các hình tượng quẩn quanh, sau họ Khang không ở đó nữa, lo việc giảng dạy.
Nguyên Gia năm thứ hai mươi ba đời Tống, ở Giang Lăng có gia đình họ Trương, người con gái tuy nhỏ tuổi nhưng kính tin Phật Pháp, muốn xuất gia học đạo. Cha mẹ không thích nên ngầm gã cho nhà họ Bính. Khi biết được, cô gái liền tự vẫn, tượng Phật trong nhà liền phát ra ánh sáng, thấy vậy cha mẹ liền đồng ý cho cô gái xuất gia, hai nhà càng kính tin pháp Phật hơn. Thừa tướng Vương Trấn Thiểm xây tinh xá cho vị ni ấy.
Niên hiệu Thái Thỉ năm thứ hai mươi bốn nhà Tống, Hà Kính Thúc tôn thờ pháp Phật, nhân theo quan thứ sử đến Tương Châu xem xét, gặp được chiên đàn, liền tạo thành tượng nhưng không thành.
Đêm nọ, mơ thấy một vị Tăng bảo: Chiên đàn khó làm như gỗ thường, nhà họ Hà có cái mộc bằng cây ngô đồng, có thể làm được. Sau khi mua được thì tượng cũng được làm xong.
Một hôm mơ thấy tượng nói: Chuột cắn chân ta. Hôm sau tìm quả đúng như vậy.
Niên hiệu Kiến Nguyên đời Tề, Tinh Xá ở Tỳ Gia Ly ở Phiên Ngung có thờ tượng đá nước Phù Nam, bình thường bảy, tám mươi người mới nhấc được. Lần nọ Chùa bị cháy, nhưng riêng gian thờ tượng không bị cháy, các ni liền vào cứu tượng.
Lạ thay chỉ ba, bốn vị là nâng tượng ra ngoài được. Sau khi đưa tượng ra, gian thờ ấy bị cháy. Về sau mỗi lần có tai họa binh biến sắp xảy ra, tượng thường ra mồ hôi. Sau thứ sử Quảng Châu đưa về Kinh, hiện còn ngôi Chùa ở Tương Châu.
Quan thứ sử Từ Châu nhà Tống Vuơng Trọng Đức, tạo Tượng vàng, cao một trượng tám ở Chùa Tống Vương, Bành Thành. Tượng thường xuất mồ hôi khi sắp có điều xấu xảy ra. Nhân khi quân Ngụy đánh phá diệt pháp, đuổi Tăng, Tượng ra mồ hôi rất nhiều, bao nhiêu người lau vẫn không khô.
Quan thứ sử Từ Châu Lương Vương vốn kính tin Phật Pháp, thấy vậy liền đốt hương, lạy tạ, khấn rằng: Chúng Tăng không có tội, nguyện xin che chở. Nếu lòng thành cảm ứng thì xin lau khô mồ hôi. Quả nhiên như lời khấn, thứ sử liền dâng sớ tâu vua.
Niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ nhất đời Tề, Vương Viêm ở Thái Nguyên thọ năm giới với Pháp Sư Hiền ở Giao chỉ, được Pháp Sư tặng tượng Bồ Tát Quán Âm để thờ. Họ Vương thỉnh về thờ ở Chùa Nam Gian. Một hôm mộng thấy tượng hiện tướng rất lạ, sáng ra mới biết Chùa bị mất tượng, bọn cướp ăn cắp để đúc tiền.
Mùa thu niên hiệu Đại Minh năm thứ bảy nhà Tống cả nhà thấy ánh sáng lạ liền gửi tượng ở Chùa Đa bảo. Sau nghe tin tượng bị mất, họ Vương lại mơ thấy tượng, Chư Tăng tìm được. Ngày mười ba tháng bảy niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ nhất họ Vương làm bài tựa về sự linh hiển của tượng thần.
Ngày mùng tám tháng một niên hiệu Thiên Giám thứ nhất Lương Vũ đế mơ thấy tượng chiên đàn được đưa về nước, Vua hạ chiếu đón rước. Theo Phật Du Thiên Ký và Kinh Ưu Điền Vương ghi: Phật lên cõi Trời Đao Lợi nói pháp độ mẹ, quan Vua rất nhớ Phật, Vua nước Ưu Điền liền sai ba mươi hai người thợ, thỉnh Tôn Giả Mục Kiền Liên vẽ tượng Phật, Vua cho đúc để thờ, hiện ở Tinh Xá Kỳ Hoàn. Vũ Đế muốn thỉnh tượng này, liền sai tám mươi người đến Xá Vệ thỉnh tượng.
Vua Xá vệ nói: Đây là tượng ở đất Phật không thể đem về vùng khác. Liền cho ba mươi hai người thợ khắc gỗ chiên đàn tía làm tượng tặng. Họ khắc từ giờ Mẹo đến giờ Ngọ thì xong, tượng rất đẹp, đỉnh tượng lại có ánh sáng, Trời rải hoa như mưa, hương lạ thoảng khắp vùng.
Kinh Ưu điền Vương chép: Chân thân đã ẩn, hiện ở tượng này, lợi ích cho mọi loài. Tám mươi người sứ cùng thỉnh tượng về. Vì đường đi gian khổ, phải vượt qua bao sóng gió nên nhiều người mất mạng. Một hôm mọi người đang đói khát liền thấy phía trước có một vị Tăng, họ đến lễ bái, vị Tăng trao cho bát nước, uống vào ai cũng thấy khỏe khắn lạ thường.
***