Phaùt taâm boà ñeà
Nhaát höôùng chuyeân nieäm

tinhkhongphapsu.vn

THÍCH CA PHƯƠNG CHÍ - CHƯƠNG SÁU - THÔNG CỤC

 

THÍCH CA PHƯƠNG CHÍ

Soạn thuật: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Thích Đạo Tuyên, Đời Đường
 

CHƯƠNG SÁU

THÔNG CỤC
 

Lợi kiến của Đức Pháp Vương chưa phân cách trung biên, chính giữa và các khía cạnh, thích hợp giáo hóa thì không phân phương hướng, đâu chỉ chuyên nơi Hình Giáo. Đến như mọi người nghe đồng một pháp mà nhận hiểu khác nhau.

Nói chỉ là một mà sự tỏ ngộ lại khác biệt. Nên đối với hàng Tăng vị Địa mà đi lên, hàng buộc bít mê mà giáng xuống. Tướng của toàn thân hay toái thân, nghĩa của Tháp tụ hay Tháp tán.

Đuốc thần sáng thì tà kế gãy đổ. Linh tích nổi trội thì tin sâu kết chặt, các hạng như thế thật là đông nhiều, đầy đủ như nêu bày ở chương trước. Từ khi dòng nước giáo pháp xuôi chảy đến phương Đông, Ánh Đạo soi chiếu ở Trời Tây.

Tiếng tăm vang hưng thạnh bay vượt thật đến Đông Xuyên. Vua A Dục tạo dựng Tháp tiêu biểu, bắt đầu mở lớn khắp cùng. Hình ảnh thích phụ tỏa ngời kiêm Hán. Từ đó, trải qua các thời đại tiếp tục càng lớn nhiều. Cảnh chẳng chỉ riêng Trời Tây xiển dương thần hóa.

Nên trong Kinh nói: Về sau, Chánh Pháp lan tỏa cùng khắp trước tiên là đến phương Bắc, tiếp theo đến Đông Nam rồi đến Trung Hoa mới diệt. Tại phía Nam nước Chấn Đán đây trông nhìn về Hoa Tư, nên dung nghi Đức Phật lúc diệt độ xoay thân nghiêng đầu về hướng Bắc, tức là sự kiện ấy vậy.

Do đó, ý cứ theo sách biên theo thứ lớp, lấy làm chương Thông cục vậy. Căn cứ theo Chu thư dị ký thì vua Chiêu Vương Cơ Hạ ở ngôi vua hai mươi tư năm, 1000 - 976 trước Tây lịch.

Vào ngày mồng tám tháng tư năm Giáp Dần, khắp các sông hồ ao suối bỗng nhiên nước dâng tràn, nước giếng cũng tuôn tràn ra, núi sông chấn động. Có ánh sáng năm sắc soi suốt vào Thái Vi, khắp phương Tây đều có sắc màu xanh hồng.

Quan Thái Sử Tô Do nói rằng: Có bậc Đại Thánh Nhân Xã Hội ở phương Tây. Qua một nghìn năm sau, Thánh Giáo sẽ lan tỏa đến xứ này. vua Chiêu Vương liền ban sắc khắc ghi vào đá và đem chôn trước đền thờ Trời ở Nam Giao. Đó tức là thời gian của Đức Phật xuất hiện nơi đời vậy.

Đến lúc vua Mục Vương Cơ Mãn ở ngôi vua ba mươi hai năm 976 - 921 trước Tây lịch thời Tây Chu, qua vài lần thấy ở phương Tây có hơi khí sáng, trước kia quan Thái Sử Tô Do đã nói Thánh Nhân ra đời. Liền cùng Tướng Quốc Lã Hầu cưỡi ngựa Hoa Lựu đi đến phương Tây, tìm cầu Phật nhân vì để cúng tế nó.

Đến lúc vua Mục Vương năm mươi ba tuổi tuổi vào ngày mười năm tháng hai năm Nhâm thân, đang lúc sáng sớm bình thản bỗng nhiên gió bão nổi dậy phá hoại sụp đổ nhà cửa, cây cối ngã gãy, trái đất rung động, bầu Trời sẩm tối. Ở phương Tây có mười hai vầng cầu vồng sắc trắng.

Quan Thái Sử Hồ Đa nói rằng: Ở phương Tây, bậc Đại Thánh Nhân diệt độ vậy. Đó tức là tướng Niết Bàn. Có thuyết nói là Đức Phật ra đời dưới thời Chu Trang, Lỗ Trang, nay chỉ lấy văn của phần nhiều để ghi chép vậy.

Theo Sử Lục nói rằng:

Thương Thái Tể Hy hỏi Khổng Tử rằng: Ai là Thánh Nhân?

Khổng Tử đáp: Ở Tây Phương có người đúng là bậc Thánh, không trị mà chẳng loạn, không nói mà tự tin, không chuyển hóa mà tự thực hành, thênh thang thay khắp muôn dân không tên gì đáng để tôn xưng đó vậy.

Lại theo Tây Thăng Kinh của Lão Tử nói: Thầy ta giáo hóa vân du đến Thiên Trúc, khéo vào Niết Bàn. Lại, trong khoảng niên hiệu Nguyên Thú 122 - 116 trước Tây lịch thời Tiền Tây Hán, vua Võ Đế Lưu Triệt muốn chóng dứt trừ bệnh đánh dẹp hung nô, đến Cao Lan vượt qua núi Cư Diên, đánh bắt được vua Côn Da Hưu Xà v.v... lại bắt được người vàng thân cao hơn cả trượng đưa về liệt bày ở cung Cam Tuyền, vua cho đó là bậc Đại Thần nên đốt hương lễ bái.

Kịp đến lúc, từ Tây Vức sai sứ Trương Khiên trở về Đại Hạ nói là có nước Thân Độc. Nước Thân độc là một tên gọi của nước Thiên Trúc, mới nghe giáo pháp của Phù Đồ Phật Đà. Đó tức là Hình Giáo tướng của Phật dần hiển bày vậy.

Trong khoảng niên hiệu Nguyên Thọ 02 - 01 trước Tây lịch lưới thời vua Ai Đế Lưu Hân đến thời Tây Hán sai Cảnh Hiến sang nước Đại Nguyệt Chi, nhân tụng Kinh Giáo Phù Đồ rồi trở về đất Hán. Đang lúc có phần thực hành trai giới Phù Đồ.

Và dưới thời vua Thành Đế Lưu ngao 32 - 06 trước Tây lịch thời Tây Bán, Đô Thủy sứ giả Quan Lục đại phu Lưu Hướng tương truyền rằng: Từ trước, tôi rộng đọc xem các sách sử thường luôn thấy có Kinh Phật.

Kịp đến lúc trước thuật Liệt tiên truyện lại nói rằng: Tôi xét xem kho sách, Thái Sử bắt đầu loạn liệt tiên đồ. Từ thời hoàng đế mãi đến ngày nay, hẳn định kiểm xét thật lục gồm có một trăm bốn mươi sáu vị, trong đó có bảy mươi bốn vị đã thấy Kinh Phật. Căn cứ vào đó thì rõ từ thời nhà Tần nhà Chu trở về trước sớm đã có Phật Pháp lưu truyền đến xứ Chấn Đán.

Do đâu mà biết vậy?

Nay thì căn cứ theo chỗ nêu bày.

Nên trong Phật truyện nói là: Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn một trăm mười sáu năm, tại nước Đông Thiên Trúc Ấn Độ có vị Thiết Luân Vương thống nhiếp châu Diêm Phù Đề, thâu gom linh cốt của Đức Phật và sai sử quỷ thần, cứ nơi có một ức người thì dựng lập một ngôi Tháp, và khắp trong bốn biển xây dựng tất cả tám mươi bốn nghìn ngôi Tháp.

Nên khắp xứ của chín châu đây đều có Di Tháp, đó là do vua A Dục tạo dựng vậy. Và bấy giờ là tương đương với thời vua Lệ Vương, Cơ Hồ 857 - 841 trước Tây lịch thời Tây Chu. Nên Tháp Phật tạo dựng khắp cùng thế gian đã trải qua hơn hai mươi đời vua.

Mãi đến năm Thỉ Hoàng, Doanh Chính 246- 209 trước Tây lịch ba mươi tư tuổi thiêu đốt sách sử. Các Tháp do vua A Dục tạo dựng do đó mà dần mất tiêu. Kinh Phật lưu truyền nơi đời chẳng biết tại đâu.

Lại theo Kinh lục của Sa môn Thích Đạo An, Chu Sĩ Hành v.v... tự nói là: Dưới thời Thỉ Hoàng, có các Sa môn người ngoại quốc như Thích Lợi Phòng v.v... cả thảy mười tám vị Hiền giả mang Kinh Phật đến giáo hóa Thỉ Hoàng, nhưng Thỉ Hoàng chẳng chịu theo, bèn bắt giam vào cầm tù, đêm đến có sáu người cầm chày Kim Cang đến phá cửa ngục dẫn đưa ra.

Thỉ Hoàng vô cùng kinh sợ nên cúi đầu sám tạ đó. Y cứ vào đây mà nói thì biết rõ từ thời nhà Tần nhà Hán trở về trước đã có Phật Pháp.

Sau này, Sa môn Thích Đạo An ghi nêu mười hai vị Hiền giả cũng tại trong số bảy mươi vị trước đó. Nay thấy trong Liệt tiên truyện có bảy mươi hai vị.

Căn cứ theo Văn Thù Nê Hoàn Kinh nói: Sau khi Đức Phật diệt độ bốn trăm năm mươi năm năm. Bồ tát Văn thù đến trong núi Tuyết vì năm trăm Tiên Nhân mà giảng nói pháp.

Lại căn cứ theo Địa Lý Chí, Tây Vức Truyện nói: Núi Tuyết tức là Thông Lãnh vậy, phía dưới có ba mươi sáu nước, từ trước trở lại kính phụng theo nhà Hán. Thông Lãnh ấy xoay quanh từ phía Đông đến Chung Nam.

Chỗ Bồ tát Văn Thù giáo hóa Tiên Nhân tức là địa vức ấy vậy. Rõ ràng mà nghiệm xét thì điểm luận bàn của Lưu Hướng có thể đáng làm chứng cứ vậy.

Theo Hậu Hán Giao Kỷ chí nói rằng: Phật, tiếng Hán Trung Hoa phiên dịch nghĩa là Giác, rồi mới giác ngộ cho quần sinh. Tổng quát thì, đứng về giáo tức lấy tu thiện từ tâm làm chủ, không giết hại các sinh loại, chỉ chuyên việc thanh tịnh.

Đứng về mặt tinh là Sa môn, tiếng Hán Trung Hoa phiên dịch nghĩa là Tức Tâm, tức cạo bỏ râu tóc, hủy hoại dung nghi, xả bỏ gia đình vượt ra thế tục, dứt tình tẩy dục mà quy hướng về vô vi. Lại là, con người khi chết, tinh thần chẳng mất, tùy đó trở lại nhận thọ thân hình.

Mọi hành vi thiện ác đến đời sau đều có báo ứng. Điểm quý trọng là thực hành việc thiện tu đạo để luyện tinh thần mình, luyện mà không thôi, cho đến chứng đạt vô sinh mà thành tựu Phật Quả, thân hình cao lớn một trượng sáu thước, sắc màu vàng ròng, trên cổ mang đeo ánh sáng mặt nhật mặt nguyệt.

Biến hóa vô thường, không đâu chẳng vào, nên hay biến thông muôn vật, cứu tế khắp quần sinh, Kinh Sách có hơn ngàn quyển. Lấy hư vô làm tông, bao gồm tinh thô không gì chẳng gồm cả.

Khéo vì mở thoáng lời thắng lớn, chỗ mong cầu tại trong một thể, điểm tỏ sáng ở ngoài thấy nghe, kết quy về Huyền vi suy xét khó được mà thấp kém.

Nên các bậc Vương Công Đại Nhân quán xem ngằn mé của sinh tử báo ứng, không ai chẳng khiếp sợ mà tự mất. Ngoài ra còn lại đều như Hán Pháp bản nội truyện.

Lại theo Ngụy thư nói là: Thái Hâm thỉnh cầu được Kinh Phật bốn mươi chương và Tôn Tượng Đức Phật Thích Ca đứng. Vua Minh Đế Lưu Trang 58 - 76 thời Đông Hán sai bảo người khéo giỏi ghi chép đồ tả tôn trí tại Đài Thanh Lương, kịp đến lúc Hiển Tiết Lăng dâng trình Kinh Văn, đều tôn trí trong thạch thất tại Lan Đài.

Sự trở về của Thái Hâm là mang Kinh từ Bạch Mã đến đất Hán, nhân đó mà dựng tạo Chùa Bạch Mã tại phía Tây Ung Môn Lạc Dương.

Ý chỉ của Kinh ấy đại lược mà nói thì tất cả các loài hàm sinh đều nhân hạnh nghiệp mà khởi. Có ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai, với thứ lớp tu đạo cấp bậc tân hành v.v... chẳng phải một đều men duyên từ cạn đến sâu.

Mượn nhỏ nhiệm để lấy làm trước, dẫn hiện tại tích chứa nhân thuận, dứt trừ ham thích dục lạc, tập hành rỗng rang vắng lặng mà thành soi sáng cùng khắp. Mới đầu tu tâm thì nương tựa theo Phật Pháp Tăng thọ trì Tam Quy.

Pháp Tam Quy tựa như Tam Úy của quân tử. Lại có ngũ giới tức dứt bỏ sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ và uống rượu, đại ý tương đồng như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

Nghĩa là người phụng trì các giới ấy thì sinh vào cõi Trời người ưu thắng, xa lìa các khổ của ngạ quỷ, súc sinh. Nói về cách nơi chốn của thiện ác thì có sáu đường.

Người sống hiện tại, nghiêm phòng giữ tâm, thân miệng chân chánh, gồm tất cả thì gọi là thập mười thiện pháp, người có khả năng gìn giữ đầy đủ như thế thì gần tức được quả báo ở Cõi Trời, xa thì thành đạt đạo quả bồ đề.

Xưa kia, vào đêm mồng tám tháng tư, Đức Phật từ hông phía hữu của mẹ mà sinh ra, nổi bày ba mươi hai tướng tốt khác người, đến sau khi đã qua đời nhập Niết Bàn, các hàng đệ tử v.v... dùng các thứ gỗ hương thơm thiêu đốt nhục thân, linh cốt phân nát, lớn nhỏ tựa như hạt thóc, sắc màu hồng trắng, đánh đập chẳng vỡ bể, thiêu đốt không cháy tiêu, thường có tỏa phóng ánh sáng thần nghiệm.

Mãi về sau, vua A Dục dùng sức thần phân chia Xá Lợi của Đức Phật, sai sử các quỷ thần tạo dựng tám mươi bốn nghìn ngôi Tháp báu. Nay tại các xứ Lạc Dương, Bành Thành, Phù Phong, Thục Châu, Cô Tàng, Lâm Truy v.v... đều có Tháp ấy và đều có thần dị.

Theo Ngô Thư nói rằng: Năm Xích Ô thứ bốn 241 thời Đông Hán, có Sa môn Khương Tăng Hội, người nước Khương Cư du hành hóa đạo, mới đầu đến đất nhà Ngô, dựng lập Am Tranh, thiết bày Tôn Tượng hành đạo, dân chúng nước Ngô thấy vậy cho là yêu dị, Quan Hữu Ty tấu trình.

Bấy giờ, Ngô chủ là Tôn Quyền hỏi rằng: Phật có linh nghiệm gì ư?

Khương Tăng Hội đáp: Đức Phật ẩn mất linh tích đã hơn ngàn năm, nhưng di cốt Xá Lợi ứng hiện không ngừng.

Tôn Quyền bảo: Nếu như cầu được Xá Lợi thì sẽ tạo dựng Tháp phụng thờ. Trải qua hai mươi mốt ngày mong cầu bèn cảm có Xá Lợi năm sắc ngời sáng, phân bổ đó lại càng cứng rắn, thiêu đốt thì không cháy mà tỏa phóng ánh sáng vượt ra ngoài lửa làm thành hoa sen lớn chiếu soi khắp cùng Cung Điện, Tôn Quyền kinh lạ tán thán, phát khởi tín tâm, vì đó mà tạo dựng Chùa Kiến Sơ, độ người xuất gia.

Tôn Quyền hỏi:

Thượng thư lệnh Đô Hương hầu Hám Trạch rằng: Từ thời vua Minh Đế, Lưu Trang 58 - 76 Đông Hán đến nay bao nhiêu năm, Phật Giáo lưu nhập vào đất Hán đã lâu, mới đầu bởi duyên gì mà đến Giang Đông?

Hám Trạch đáp rằng: Từ năm Vĩnh Bình thứ mười 67 đến nay là năm Xích Ô thứ bốn 241 cả thảy có được một trăm bảy mươi nămNhưng vào năm Vĩnh Bình thứ mười bốn 71, các Đạo Sĩ ở Ngũ Nhạc cùng Ca Diếp Ma Đằng lúc tranh đọ sức, Đạo Sĩ chẳng sánh bằng, nên Trử Thiện Tín, Phí Thúc Tài v.v... ở Nam Nhạc ngay tại hội tự cảm mà chết, môn đồ con em đưa về an táng tại Nam Nhạc, chẳng ai dự phần xuất gia nên không có người lưu bố.

Về sau lại gặp nạn nhà Hán ta chinh chiến lấn lướt giặc dã không ngưng dứt, mãi đến nay đã trải qua nhiều năm mới được phục hưng hành hóa.

Tôn Quyền lại hỏi: Khổng Khâu, Lão Tử có được sánh đối bằng Đức Phật chăng?

Hám Trạch đáp rằng: Thần tìm xét, Khổng Khâu, Người nước Lỗ là bậc anh tài trội vượt tuần tú, Thánh Đức chẳng ai bằng, nên người tôn xưng là Tố Vương, chế tác Kinh Điển, dạy răn giúp đỡ chu đạo, giáo hóa hậu lai.

Phong thái của bậc thầy Nho đượm nhuần xưa nay, cũng có những vị trội vượt hơn quá người thường như Hứa Thành Tử, Nguyên Dương Tử, Trang Tử, Lão Tử v.v... sách của Bách Gia Tử đều là tu thân tự vui.

Phóng thích chốn núi hang, buông lớn tâm ấy, học thì kết quy về đạm bạc, sự trái với chi tiết nhân luân lớn bé, cũng chẳng phải là mỹ phong an trị ở đời dạy răn dân chúng.

Đến như vua Cảnh Đế Lưu Khải 155 - 140 trước Tây lịch thời Tây Hán lấy Hoàng Tử, Lão Tử nghĩa thể rất sâu, cải đổi tử làm Kinh mở đầu lập môn Đạo Học, ban sắc từ Triều Đình đến thôn giả, mọi người thảy đều phải đọc tụng Kinh nếu đem sự sâu xa của hai nhà Khổng Tử và Lão Tử sánh với sự sâu xa của Phật Pháp thì là rất xa vậy.

Tại sao?

Lão Tử thiết lập giáo, phép tắc tại Trời chế định, chẳng dám trái với Trời, còn Chư Phật thiết lập giáo, Pháp Trời phụng hành không dám trái với Phật. Lấy đó để nói thì thật chẳng thể đối sánh rõ ràng vậy. Tôn Quyền rất vui mừng. Lấy Hám Trạch làm thái tử Thái Phó.

Theo Ngụy thư nói rằng: Vua Minh Đế từng muốn phá hoại Phù Đồ ở phía Tây cung, có vị Sa môn. Người ngoại quốc mới dùng chiếc mâm bằng vàng đựng đầy nước đặt ở trước điện rồi đem Xá Lợi ném vào trong nước, bỗng nhiên có ánh sáng năm sắc tỏa phát ra, vua càng thêm kinh lạ tán thán, mới đến phía Đông đường đi tạo dựng Phù Đồ lớn trăm gian và lấy đó làm Tịnh Xá.

Đến lúc Ngô Hậu Chúa là Tôn Hạo cải ngược chính sách, phế bỏ dâm từ, Chùa Phật lần lượt cũng đồng bị phá dẹp.

Hạn định cùng các Thần Thiên rằng: Khương Tăng Hội cảm được điềm lành, Thái Hoàng Tôn Quyền tạo dựng Chùa, như toại hủy phá, sợ để lại hối hận về sau. Và đào bới đất trong hậu cung có được Tôn Tượng bằng vàng, Tôn Hạo bèn đem làm điều dơ bẩn đó, bèn cảm nơi chỗ kín rất đau nhói, tiếng kêu than khó nhẫn chịu.

Thái Bốc bảo là: Bởi do trái phạm thần lớn nên vậy. Từ đó, đi cầu đảo khắp các danh sơn, sông lớn, không đâu chẳng đến, mà sự thống khổ càng tăng thêm nhiều. Có người đến xin thỉnh cầu Phật.

Tôn Hạo bảo: Phật là Thần lớn ư?

Thử có thể nên cầu xin đó. Vừa chỉ một lần cầu thỉnh bèn lành, mới đưa xe ngựa đến nghinh thỉnh, Sa môn Khương Tăng Hội vì trình bày cho biết mọi sự báo ứng, Tôn Hạo thấy bản nghiệp có cả thảy một trăm hai mươi điều nguyện đều vì chúng sinh, nên càng dốc lòng kính trọng, bèn đến chỗ Sa môn Khương Tăng Hội, theo thọ trì Ngũ Giới.

Chuẩn cứ vào sự đào bơi đất mà có được Tôn Tượng đây thì rõ biết từ thời nhà Tần nhà Chu đã có Phật Giáo thật rất xác nghiệm vậy.

Vào năm Kiến Hưng thứ nhất 313 thời vua Mẫn Đế Tư Mã Nghiệp thời Tây Tấn, có hai Tôn Tượng bằng đá trôi nổi bồng bềnh trên sông Ngô tùng. Các ngư dân nghi đó là Thần biển nên mới thỉnh thầy đồng cốt chú nguyện để nghinh thỉnh, sóng gió trên sông trở nên nổi mạnh.

Những người kính thờ Hoàng Lão cho đó là Thiên Sư, lại sang nghinh thỉnh, sóng gió cũng nổi dậy như trước. Có cư sĩ Chu Ưng, Người ở Ngô huyện vốn có tâm chí thành kính tin Phật cùng với Bạch Ni ở Chùa Đông Linh và vài người kính tin đến cửa sông Hổ Độc để nghinh thỉnh đó. Sóng gió tự nhiên vắng lặng.

Từ xa trông thấy hai người đến, mới là Tôn Tượng đá đứng cao bảy thước, bưng đi trong sóng lên thiết đặt tại Chùa Thông Huyền, có khắc minh trên lưng Tôn Tượng, một tên là Duy Vệ và một tên là Ca Diếp, chẳng lường biết vào đời vua nào mà dấu vết chữ in rõ ràng.

Ngày mồng tám tháng hai năm Ninh Khương thứ ba 375 thời vua Hiếu Võ Đế Tư Mã Xương Minh Đông Tấn, Sa môn Thích Đạo An là bậc đức lớn sáng ngời.

Vang danh khắp xứ, ở phía Tây thành quách tương đương chú đúc Tôn Tượng Đức Phật Vô Lượng Thọ cao trượng sáu, đến tháng chín năm sau 276 mới nghiêm sức hoàn thành. Tôn giả ấy mới theo hướng Tây lên đến vạn sơn.

Bấy giờ khắp xóm làng mọi người đều kinh sợ tán thán nghinh thỉnh trở về lại Chùa cũ. Và trong đêm đó, Tôn Tượng lại ra đứng ngoài cửa Chùa. Quan thứ sử Hy Khôi mới cải đổi tên là Chùa Kim Tượng  Chùa tượng vàng.

Đến năm Phổ Thông thứ ba 522 thời Nam Lương, vua Võ Đế Tiêu Diễn đến vườn Kiến Hưng chú đúc tòa họa bằng vàng đồng để tượng ngồi kiết già cao sáu thước, rộng một trượng, ban sắc Lưu Hiếu Nghi làm văn dựng lập bia tán thán đức hạnh.

Mãi đến thời Võ Đế Võ Văn Cung thời Bắc Chu phá diệt Phật Pháp, năm Kiến Đức thứ ba 574, có Thái Nguyên Công Vương Khương làm Kinh châu thứ sử cùng Phó tướng Tường Tôn Triết vốn không tin Phật Pháp trước đã muốn phá hoại Tôn Tượng đó, bèn sai bảo hơn trăm người dùng dây buộc vào cổ tượng để kéo mà tượng y nhiên không lay động.

Trường tôn triết cho là không dụng sức, bèn nắm gậy ra hiệu lệnh để lôi kéo, nhưng tượng vẫn như cũ. Không lay động, nên lại tăng thêm số ba trăm người, cho đến năm trăm người lôi kéo mới nghiêng đổ.

Tiếng vang động cả đất Trời, liền khiến những người phá hoại đó cất tiếng tự vui mừng, mới vội cưỡi ngựa muốn về báo cùng Quan thứ sử, vừa mới đi được khoảng trăm bộ, bỗng nhiên ngã té nơi đất mất tiếng trợn mắt, sau đó bèn chết.

Các hàng đạo tục cất tiếng mừng vui. Đang lúc phá hủy tượng, ở dưới nách ngã rũ trong tay áo Tôn Tượng có khắc ghi bài minh rằng: Năm Thái Nguyên thứ mười chín 394 thời Đông Tấn, tức năm Giáp Ngọ, Tỳ kheo Thích Đạo An ở thành quách phía Tây Tương Dương tu tạo một Tôn Tượng bằng vàng cao trượng tám.

Tôn Tượng này trải qua ba giáp đến năm Giáp ngọ 574 tức một trăm tám mươi năm tròn sẽ bị phá hủy. Tính xét về năm tháng hẳn là phù hợp vậy. Nên tin biết tay Ấn Thánh Nhân thật không hư dối đó vậy.

Nhưng đem sự mà suy xét thì năm Thái Nguyên thứ ba 378 thời Đông Tấn tấu tức năm Mậu Dần, tức tương đương với năm Kiến Nguyên thứ mười lăm của Phù Kiên nhà Tần, Sa môn Thích Đạo An cùng Chu Tự Tập Úc bị bắt tại đất Tần. Đến năm Thái Nguyên thứ mười 385 thì Sa môn Đạo An thị tịch tại Quan Ải.

Sau khi thị tịch mười năm mới đến năm Giáp Ngọ 394. Một lần xem lược qua về niên kỷ thì có sự sâm sai, dự thấy chưa hẳn vậy, trải qua ba lần năm Giáp Ngọ, tức lấy số cùng cực của vận lớn, lại hiển bày thông Thánh của Tay ấn vậy.

Trong khoảng niên hiệu Thái Nguyên 376 - 397 thời Đông Tấn, có Sa môn Thích Đàm Dực đến Kinh Châu tạo dựng Chùa Trường Sa, đến lúc Chùa hoàn thành mà chưa có Tôn Tượng Phật.

Sa Môn Đàm Dực bảo rằng: Di tích của Đức đại thành khắp cùng cả Diêm Phù Đề, há ta không có cảm mà chẳng giáng ứng ư?

Bèn khiết trai kính ngưỡng cầu mong. Đến đêm mồng tám tháng hai, thấy ở phía Bắc thành có hình nghi rất nghiêm túc cao bảy thước tỏa phóng tướng ánh sáng soi chiếu lên Trời, các nơi đến nghinh thỉnh mới đầu chẳng thể giấu nổi.

Sa Môn Đàm Dực bảo: Há chẳng phải cảm thông giáng hiện đến Chùa Trường Sa của chúng ta ư?

Bèn cùng ba người bưng thỉnh, bỗng nhiên nhẹ nhàng nâng nghinh vào Chùa. Trước kia, qua đêm có người cho là quái lạ nên dùng dao rạch vào Tôn Tượng, tự nhiên có tiếng kêu vàng, trông xem lại thì đó là Tôn Tượng bằng vàng. Chỗ dao rạch trên ngực đường văn nổi hiện ra ngoài.

Về sau có vị Sa môn người nước Kế Tân bảo: Đó là Tôn Tượng của vua A Dục tu tạo, trên ánh sáng có chữ rõ ràng. Bấy giờ mọi người rất kính trọng. vua Võ Đế tiêu diễn 502 - 550 thời Nam Lương nghe thế, từng đến xin nghinh thỉnh về Đông Hạ.

Tuy dốc hết sức lực mà trọn không đến được. Sau đó, với tâm chí thành trịnh trọng cầu thỉnh rất mực ân cần, Tôn Tượng mới xuống. Thuyền đi cách Thành Đô khoảng mười tám dặm, vua tự ra nghênh đón, men theo đường tỏa phóng ánh sáng không dứt.

Các hàng đạo tục tán thán mừng vui. Về sau, tôn trí tại điện Thái Cực lại thiết bày cúng dường. Xong rồi nghinh đưa ra cửa Đại thông, vào Chùa Đồng Thái, lại thiết lễ cúng dường.

Kịp đến lúc Chùa bị nạn hỏa hoạn, điện đường đều cháy rụi, chỉ Tôn Tượng vẫn nghiễm nhiên giữa điện. Về sau lại nghinh thỉnh đưa về Chùa cũ ở Kinh Châu.

Ban đêm, Tôn Tượng ấy ra đi nhiễu quanh Tháp, dáng hiện điềm linh chẳng chỉ một lần và đến lúc vua Nguyên Đế Tiêu Dịch 552 - 555 thời Nam Lương băng hà, gặp lúc có hung sự, Tôn Tượng bèn đổ mồ hôi đất.

Và gần đây, lúc vua THái Tông Lý Thế Dân 627 - 650 thời Tiền Đường băng hà, Tôn Tượng cũng đổ mồ hôi như trước, những điềm ứng hiện như thế rất nhiều.

Trong khoảng niên hiệu Hàm Hòa 326 - 335 thời Đông Tấn, có Cao Khôi ở huyện Duẫn. Đan Dương thấy bến bờ cầu Trương Hầu có ánh sáng khác lạ, sai bảo người đến tìm xem, bèn gặp được một Tôn Tượng bằng vàng không có tòa ngồi.

Liền vận chuyển đến cửa cảng Trường Can, trâu dừng đứng không chịu đi, mới mặc tình theo đó nên nghinh đưa vào Chùa Trường Can.

Sau đó vài năm, có ngư dân Trương Hệ Thế ở gần biển đến nơi cửa biển, thấy có tòa hoa sen bằng đồng trôi nổi trên nước, mới dâng biểu tấu trình, vua bèn ban sắc nghinh đưa về, thiết trí Tôn Tượng, quả nhiên phù hợp. Về sau có năm vị Sa môn.

Người nước Thiên Trúc đến nhà Cao Khôi nói rằng: Xưa trước tại nước chúng tôi có được Tôn Tượng do vua A Dục tu tạo, đến lúc Huyện Nghiệp gặp loạn, bèn cất giấu bên bờ sông.

Gần đây, cảm mộng Tôn Tượng bảo là: Ta đã ra đến Giang Nam, và Cao Khôi gặp được. Cao Khôi mới dẫn đưa đến Chùa, năm vị Tăng ấy trông thấy mà rơi lệ, Tôn Tượng lại vì tỏa phóng ánh sáng soi chiếu khắp trong ngoài.

Các vị Tăng ấy bảo: Tôn Tượng này là do người con gái thứ bốn của vua A Dục tu tạo. Văn từ ghi ở tòa hoa ngồi. Nhân đó kiểm xét thật đồng vậy.

Lại nói: Vốn có ánh sáng tròn, tính ứng hẳn sẽ đến. Về sau, đến năm Hàm An thứ nhất 371 thời Đông Tấn tại Giao Châu, nơi bến đậu của những người lược nhặt châu ngọc, có Huân Tông Chi thấy dưới đáy biển có ánh sáng nổi vọt trên nước, bèn tìm được ánh sáng Phật, nên đem sự việc ấy tấu trình.

Vua Giản Đế Tư Mã Dục 371 - 373 mới ban sắc treo nơi lỗ hổng sau lưng Tôn Tượng, đồng ánh sáng sắc màu không biến đổi. Hơn bốn mươi năm, sông biển cách biệt, một mai mới đầy đủ, trăm người nghĩ nhớ tán thán. Từ thời nhà Tấn đến thời nhà Trần trải qua năm Triều Đại, các bậc quân Vương không ai chẳng thân gần kính lễ.

Mỗi lúc gặp phải nạn hạn hán, nghinh thỉnh Tôn Tượng lên kiệu đưa vào cung, khẩn thiết nguyện cầu, thảy đều có được mưa. Đến trong niên hiệu Trinh Minh 587 - 589 thời nhà Trần, Tôn Tượng ấy tự nhiên xoay thân mặt nhìn về hướng Tây, tuy chỉnh sửa lại nhưng vẫn xoay như thế.

Mọi người bèn đem sự việc ấy tấu trình Hậu Chúa Trần Thúc Bảo 583 - 589 bèn nghinh thỉnh về tôn trí tại điện Thái Cực, thiết trai hành đạo, Tôn Tượng mới rơi mất mũ bảy báu xuống móc nơi tay.

Hậu chúa bèn đốt hương phát thệ nguyện rằng: Nếu như nước nhà có điềm không tốt lành thì nguyện xin hiện lại tướng ấy. Và đưa mũ ấy đội lại trên đầu tượng. Đến sáng hôm sau cũng lại rơi khỏi như trước, vua tôi thảy đều đổi sắc mặt. Kịp đến lúc nhà tùy phá diệt nhà Trần.

Quan Triều tả để lộ bày mặt buộc vào Kinh. Vua Văn Đế Dương Kiên 581 - 605 thời nhà Tùy biết thế bèn nghinh đưa vào trong cung, thường luôn kính hầu cúng dường.

Về sau, vua ban sắc chiếu rằng: Trẫm tuổi già không thể đứng lâu có thể nên làm tòa. Tôn Tượng của vua A Dục nên đưa vào cúng dường Chùa Hưng Thiện. Thấy hình tượng nhỏ thiết đặt tại mặt phía Bắc, đến lúc sáng sớm hôm sau mới thấy tại phía Nam, lần lượt bên trong hổ thẹn. Nay thấy tại điện đồ tả rất lớn vậy.

Và trong niên hiệu Nhân Thọ 601 - 605 thời nhà Tùy dựng lập Bảo Tháp, hơn một trăm châu đều có tỏa phóng ánh sáng tốt lành. Như nói trong cảm ứng truyện.

Năm Thái Diên thứ nhất 435 thời vua Thái Võ Đế, Thác Bạt Đào, thuộc thời Nguyên  Bắc Ngụy, có Sa môn Lưu Tát Hà gia đình vốn ở Bình Nguyên, Nam Cao. Ly Thạch, nay thuộc Từ Châu.

Xưa trước đi đến Hòa quận thuộc Tây Phiên, Lương Châu, đứng ở phía Đông Bắc ngóng trông về Ngự Cốc và xa kính lễ mà nói rằng: Núi này sẽ có Tôn Tượng hiển hiện, nếu linh tướng đầy đủ thì trong đời an vui thời vận bình yên, còn như có điểm khuyết thiếu thì đời loạn lạc, dân chúng khổ sở.

Sau đó trải qua tám mươi bảy năm, đến năm Chánh Quang thứ nhất 520 thời Bắc Ngụy, nhân gió mưa lớn, sấm sét nổ đùng, từ núi hang nổi lên hình tượng, thân cao một trượng tám thước, thân hình tướng tốt đoan nghiêm, chỉ không có phần đầu.

Bèn chọn đá thuê thợ đục tạc phần đầu, gắn đặt lên rồi trở lại rơi xuống. Từ đó, Triều Đình nhà Ngụy lấn lướt loạn lạc, lời nói trước kia Phật có chứng nghiệm vậy.

Mãi đến năm thứ nhất của Triều Đại Bắc Chu 557, mới đầu bình trị Lương Châu, từ thành về phía Đông cách khoảng bảy dặm có một khe suối, bỗng nhiên thấy một đầu Tượng Phật bằng đá, hình sắc tỏa sáng, bèn đưa sang lắp đặt quả nhiên phù hợp, thần nghi điêu khuyết. Hơn bốn mươi năm, thân đầu khác xứ, cách xa nhau hơn hai trăm dặm, bỗng nhiên một mai tròn đủ.

Mọi người đều cảm thán lạ thường. Bấy giờ có ánh đuốc soi chiếu, tiếng chuông vang vọng chẳng ai biết từ đâu có đến. Đến năm Kiến Đức thứ nhất 572 thời Bắc Chu, đầu Tôn Tượng lại rơi xuống, Đại trưng Tể cùng Tề Vương đích thân sang trông xem, mới bảo xếp đặt lên lại, đến đêm cũng rơi xuống như cũ, trải qua vài mươi lần, lại đưa gắn các phần đầu khác, trọn cũng rơi rớt như thế.

Sau đó phá diệt Phật Pháp chỉ được bốn năm, khắp bốn phương đều bị tang diệt, tiếp tục lời nói trước ấy lại có ứng nghiệm vậy. Nên phỏng tả tướng trạng ấy rốt cuộc hình lượng có sai. Nay làm thành Chùa cảm thông vậy.

Lưu Tát Hà bèn thị tịch tại Tửu Truyền trong khe nước cách thành bảy dặm về hướng Tây. Di cốt như hạt quỳ, có người gom nhặt xâu bỏ lại đó, như văn bia ở Chùa kia nói vậy.

Đầu niên hiệu Trinh Quán 627 thời Tiền Đường, Tôi Đạo Tuyên vân du ngoài ải nên có đến bái yết bản miếu của Lưu Tát Hà tại trong Chùa ở Từ Châu.

Hình ảnh đoan nghiêm cao vợi, thường ngày có lễ kính lớn, từ các châu Thạch Thất, Từ, Nham, Diên, Đan, Tuy, Ngân v.v... đều đồ tả hình sùng kính cúng dường, xưng gọi là Lưu sư Phật vậy.

Trong khoảng niên hiệu Thiên Bình 534 - 538 thời Nguyên Ngụy, tại Định Châu có mộ sĩ tôn kính Đức tạo Tôn Tượng Bồ tát Quán Thế Âm và tự thêm sự kính lễ. Về sau gặp phải giặc dã kéo lôi, không giằng nổi sự đánh đập khổ đau, nên vọng thừa nhận tội chết.

Sắp đến lúc xử chém, mộng thấy có một vị Sa môn bảo tụng Kinh Cứu sinh Quán Thế Âm một nghìn biến hẳn sẽ được thoát khỏi. Quan Hữu ty cầm nắm dây trói dẫn đến chợ, vừa đi vừa trì tụng, đến lúc hành quyết thì đủ số một nghìn biến.

Dao chém tự gãy phân thành ba đoạn, da thịt không tổn thương. Ba lần rút dao chém đều gãy như thế, trông xem vào trên cổ của Tôn Tượng có ba dấu vết dao, bèn dâng trạng văn tấu trình, quan Thừa Tướng Cao Hoan Biểu xin khỏi tội chết.

Ban sắc ghi tả Kinh ấy rộng lưu truyền nơi đời. Nay xưng gọi đó là Kinh Cao Vương Quán Thế Âm vậy. Từ thời nhà Tấn, nhà Tống, Lương, Trần, Ngụy, Yên, Tần, Triệu, đất nước phân thành mười sáu phần, thời gian trải qua bốn trăm năm, những người xưng niệm trị tụng Danh Hiệu Quán Thế Âm, Địa Tạng, Di Lặc, Di Đà v.v... mà được cứu giúp, không thể ghi chép hết nổi, đã có đầy đủ trong các sách truyện, nên nay đây chẳng ghi đầy đủ.

Trong khoảng niên hiệu Thiên Giám 502 - 520 thời Nam Lương, vua Võ Đế Tiêu Diễn tạo dựng Chùa Quang Trạch tại Bản Đệ, chủ đúc Tôn Tượng bằng vàng đồng cao trượng tám, sắp đến sửa khuôn.

Nghi đồng không đủ, các thợ mới muốn tấu trình để xin, bèn có chiếu ban truyền lãnh mười lăm xe đồng đưa đến v.v... các thơ vâng phụng sắc đưa đến Chùa liền hợp rót, chỉ một lần đúc bên thành mà cảm thấy có phần cao lớn, bèn đo xét lại thì đến hai trượng hai thước, các thợ dâng trạng văn tấu trình, vua bèn ban sắc: Mới đầu chẳng đưa đồng đến, đó là do cảm thông. Bèn khắc nơi tòa hoa ngồi để làm linh chi. Đến nay vẫn còn vậy. 

Đến lúc vua Võ Đế Trần Bá Tiên thời nhà Trần băng hà 560, người con đầu là Trần Xuyến tức vua Văn Đế kế thừa sự nghiệp tạo xe ôn lương, mới lấy các thứ châu ngọc tại điện Trùng vân của vua Võ Đế Tiêu Diễn thời Nam Lương để trang sức.

Đưa hết sức người đã đông nhiều, khắp bốn phương đều đến chí thấy mấy khí bít giăng bao nhiễu quanh điện Phật, ngoài ra chỉ tại phía tả mở sáng, ánh mặt nhật chiếu ngời, phút chốc mưa lớn trút đổ, sấm sét nổ vang, mây khói tràn tỏa ngoài điện, lửa cháy đỏ rực trong mây, lưu tỏa ánh sáng trùm khắp cao thấp lần lượt theo nhau, và thấy ảnh bóng của điện Trùng Vân.

Hai Tôn Tượng bằng vàng bằng bạc, tám bộ Thần Vương đều cùng trải tòa đồng một lúc vạt bay, khói lửa cặp theo, bỗng nhiên đến xa ẩn mất. Mãi đến sau khi Trời tạnh, mọi người khắp cả nước trông thấy đồng đến xét xem nơi chỗ điện cũ ấy chỉ còn những đá tảng mà thôi.

Đến hơn một tháng sau, có người từ Đông Châu đến nói rằng: Ngày ấy thấy điện ảnh tượng nương giữa hư không bay trên biển. Có người trông nhìn ra biển có lúc cũng thấy vậy. Vào thời nhà Ngụy, tại Lạc Kinh, Hồ Hậu của vua Minh Đế tạo Phù Đồ ở Chùa Vĩnh Minh cao cách đất ngàn thước, khắp cả một châu Diêm Phù không nơi nào hơn Tháp ấy.

Về sau vì Trời chấn động, sự duyên lược đồng như trước. Có người ở Đông Hải cũng thấy tướng ấy. Lại cũng dưới thời nhà Ngụy, tại Bắc Đài thường an đặt hang đá, trong vòng ba mươi dặm liên tiếp lần lượt xếp đặt cao hơn hai mươi trượng, bên trong có thể dung chứa cả ngàn người.

Quanh eo biển của nước Chấn Đán, các núi Thần Châu, thường luôn có các Chùa Thánh cảm hiện trông thấy chẳng chỉ một. Vả lại lược thuật vài ba điểm để lấy làm thật lục.

Xưa trước, khoảng đầu niên hiệu Thái Nguyên 376 thời Đông Tấn, tại Đôn Hoàng có Sa môn Đàm Du là người có chí nghiệp chuyên cầu mạnh mẽ, chỉ thường đi khất thực xong rồi Tọa Thiền, nhân đi đến núi Thạch Thành ở Huyện Diệm.

Cối Kê, có đàn hổ đến vây quanh trước mặt, Đàm Du vì nó mà giảng nói pháp, trong đó có một con hổ ngủ gật, Đàm Du mới dùng gậy như ý gõ đánh vào đầu nó, bỗng nhiên có mười con rắn vây bọc chung quanh, Đàm Du vẫn như ban đầu không tỏ vẻ kinh sợ.

Lại có thần núi xả bỏ vườn nhà mà thí cúng Đàm Du. Về sau, Đàm Du lại sang núi Xích Thành an tọa. Nói ấy cùng núi Thiên Thai, Bảo Bố, Tứ Minh liên thuộc với nhau.

Có các vị phụ lão nói rằng: Ở núi Thiên Thai có Chùa Thánh. Đàm Du bèn sang kiếm tìm đó. Cầu đá gác qua hang sắc xanh trơn nhẵn, khó thể vượt qua, lại có đá đổ chắn ngang đường, không do đâu để đến được.

Về đêm, bèn dừng nghỉ tại đầu cầu, nghe bên kia hành đạo tiếng xướng vọng vang, Đàm Du bèn khiết trai tự cố gắng, bỗng thấy tảng đá nằm ngang mở suốt, nên bèn liền đi tới trước, trông thấy Tịnh Xá, có vị Thần Tăng đốt hương.

Sau khi thọ trai bữa trưa xong, bảo Đàm Du rằng: Mười năm sau hãy tự nên đến đây. Lại có Sa môn Thích Viên Thông ở Chùa Đại Trang Nghiêm tại Nghiệp Hạ trong thời nhà Tề, cảm có một vị Thần Tăng đến nghe giảng trong mùa hạ.

Đến sau khi mãn hạ Tự Tứ xong, giả từ mà nói rằng: Tại Chùa Trúc Lâm muốn mời thỉnh Viên Thông qua Chùa. Viên Thông bèn hỏi cụ thể về đường đi. Qua năm sau liền tìm đến, vừa tới phía Đông Bành Sơn, tức thuộc phía Tây Bắc của nghiệp hạ, vị Thần Tăng ấy ra nghinh tiếp, Viên Thông thấy rõ đầy đủ cửa nẻo, phòng nhà đẹp xinh cao thoáng, rừng Trúc che phủ Trời, trải qua dừng nghỉ một đêm đi quanh cùng khắp, lời ý bàn nói hợp đạo.

Viên Thông bèn có ý muốn ở đó, vị Thần Tăng ấy mới vì hỏi xin Đại Hòa Thượng nhưng không được chấp thuận. Đến lúc trở lại đường cũ ra về, vừa mới đi cách hơn ba dặm, ngoảy trông nhìn lại chẳng thấy gì cả.

Về sau, Viên Thông lại sang tìm mà chẳng biết xứ ấy tại đâu. Gần đây, tại Đặng Châu, có Sa môn Đạo Cần, đến Chùa Bắc của châu, tựa nương núi đứng, muốn tìm hỏi đến Chùa Tiên, bèn như lời nói mà thấy rõ đủ đầy, bèn rảo bước trông xem khắp cùng, quả thật là Chùa đẹp xinh, mọi thứ vật dụng đều đầy đủ, chỉ không thấy người ở.

Bước xuống tầng dưới, bỗng chốc liền mất lối trở về, mới ở bên mé đường dựng thất ở để phỏng tìm. Lại có hang Bảo Phước ở núi nơi ranh giới phía Đông của Phần Châu, là núi của Chư Tăng ở, thường thấy có các Sa môn nương giữa không trung mà qua lại.

Lại nữa, tại núi Tam Học ở phía Đông Ích Châu thường có các đèn thần từ không trung chiếu sáng, vào những ngày trai lại gấp bội lắm nhiêu.

Lại nữa, tại hang Hồng Nhai ở phía Nam Lương Châu, nơi Trờ Cừ Mông Tốn tạo dựng bia, Chùa ấy hiện còn có vị Thánh Tăng đắp họa thường hành đạo.

Có người đến thì bèn ngưng nghỉ, người đi khỏi thì tiếp tục hành đạo. Nên bên cạnh đó các dấu vết chân khíu vào là đồ chúng của vị ấy, không thể nêu bày nơi đây đầy đủ vậy.

Tôi Đạo Tuyên nghe trong Nhập Đại Thừa Luận nói các Tôn giả Tần Đầu Lô, La Hầu La v.v... cả thảy mười sáu vị Đại A La Hán thường trú nơi đời hoằng thông giáo pháp. Lại có chín ức vị Vô học cũng ở trong châu này, chưa nhập Niết Bàn.

Y cứ theo đó mà bàn rõ thì nay ở trong các núi hay nghe có tiếng khánh, hoặc bỗng nhiên gặp có Chùa, đâu chẳng phải đó là trú xứ của các Thánh Hiền ư?

Nay ước về các môn thông cục để phân thì: Một là ước về đời đã qua, hai là ước về ngay trong hiền kiếp này và ba là ước về chỉ trong thời gian của một Đức Phật Thích Ca. Ước về đời kiếp đã qua dùng để biện thông các bít tắt, như nêu bày trên, những hành sự trong đời kiếp đã qua, nào như Bồ tát xả thân về máu đổ vẫn hiện còn, thái tử Tu Đạt Noa xả thí con bị đánh đổ máu.

Bồ tát trải tóc bít lấp chỗ bùn dơ, nơi Bồ tát xả bỏ thân để mong được nghe bài kệ, nơi vua Nguyệt Quang chém đầu, nơi vua Thi Tỳ hiến dâng thịt cho chim ăn v.v... những vết tích ấy đều từ đời xưa trước, tính lường về các tai ương lắm nhiều cớ sao vẫn hiện còn ư?

Các bậc danh Tăng ở Ấn Độ cũng xét quyết điều đó rất chí lý. Như điều hỏi trên thì không nên lưu lại, mà các việc đã qua, những đời sống trước càng mở rộng tại năm xứ Ấn Độ.

Có người nói rằng: Đó là do thần lực của Đức Như Lai, là chí hạnh của Bồ tát, tuy có gặp phải tam tai cũng không thể hủy diệt. Sau khi Thế Giới mới đã lập thành, nương tựa theo đó mà nhóm tụ vậy.

Lại có người nói: Sự biến đổi của tam tai, không điều gì xưa trước chẳng dứt trừ, chỉ vì muốn khiến đời sau bắt chước theo đó mà kính ngưỡng, nên khi Thế giới mới lập thành, y theo vết tích xưa cũ tương tựa mà hiện, đều là vết tích Phật hóa thần cảm nên vậy.

Nên trong năm thứ không thể nghĩ bàn thì một là sức thần của Phật vậy. Do đó, những sự việc trong đời kiếp xưa trước đã qua nương tựa theo mà hiện bày.

Ước về ngay trong đồng đời kiếp này để rõ, thả như một là bình bát mà ngàn Đức Phật cùng đồng sử dụng. Tương truyền rằng Đức Phật Thích Ca thọ thực, bốn Vua dâng cúng Bình bát, sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, bình bát ấy lưu hành đến nước Tỳ Xá Ly, một trăm năm sau lại đến nước Càn Đà Vệ.

Lần lượt lại đến các nước Nguyệt Chi, Vu Điền, Quy Tư và sẽ đến nước Chấn Đán rồi trở lại nước Sư Tử, về lại nước Thiên Trúc, lên Cung Trời Đâu Suất.

Bồ tát Di Lặc thấy thế bảo rằng: Bình bát của Phật Thích Ca nay lại đến đây. Bèn suốt bảy ngày cúng dường. Rồi bình bát ấy xuống lại nơi Long Cung. Đến lúc Đức Di Lặc thành đạo thì bốn Vua trở lại dâng cúng bình bát.

Hai là hình ảnh Đức Phật nơi Long Cung, ngàn Đức Phật đều đồng lưu lại. 

Ba là tảng đá vuông, nơi giảng nói pháp, ngàn Đức Phật đều đồng ngồi, tức dưới cây Tất Bát La tại nước Kiền Đà.

Bốn là Tháp đá thạnh suy, ngàn Đức Phật đồng chung một thời, trong các truyện trên phần nhiều nói rõ vết tích của bốn Đức Phật Kinh hành Tọa Thiền. Chuẩn cứ theo đây thì trong tương lai ước cũng có thể thấy được vậy.

Ước về một đời Đức Phật Thích Ca, những sự thông cục chẳng đồng, như thềm cấp bằng vật báu đường lên Trời ẩn diệt rồi không dấu vết tiếp nối. Tháp lớn của Tra Vương bảy lần hóa diệt đã.

Ba cây Đạo diệt phá rồi mà lại sinh mọc. Dấu chân Đức Phật phá hủy rồi lại hiện, cành dương chặt phá hết rồi lại sinh mọc. 

Xá Lợi đem thử lại càng linh. Những sự nêu bày như trên, hẳn nên chẳng thông cùng các Đức Phật sau. Đến như núi Kê Túc, Tôn giả Đại Ca Diếp lưu hóa, cung nhỏ của Từ Tôn biện rõ giữ thân hình để chờ đợi Thánh.

Bạn của Trở Cừ diệt định, đồ chúng của Ma Chi La Hán, mọi sự hạn cục tương lai, thần vân du tuyệt vức, đều vì sáng tỏ đạo, mở bày bụi mờ, tâm từ dần dắt hữu tình, lắng thần các cõi nên vậy.

***